Thursday, January 19, 2012

Giám sát - Một nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


Giám sát - Một nhiệm vụ quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (17/01/2012)
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát cải cách hành chính và chất lượng dịch vụ công không chỉ góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh mà còn góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI nêu ra”.
Nam
 lần thứ tư (khóa VII)
Ảnh: Cẩm Bình

Sau 10 năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ giai đoạn 2001 – 2010 đã có những chuyển biến tích cực nhất là thủ tục hành chính, bước đầu đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc cho các doanh nghiệp và người dân, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội những năm qua. Tuy nhiên Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ: Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, năng lực xây dựng thể chế quản lý điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu; tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm, chức năng nhiệm vụ của một số cơ quan chưa rõ ràng còn chồng chéo; chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân; chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục còn chậm được khắc phục; chất lượng công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ... Nghị quyết Đại hội XI của Đảng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và cá nhân. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước là nội dung quan trọng của công tác Mặt trận tham gia xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và giám sát việc thực hiện cải cách hành chính và chất lượng dịch vụ công là những nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Giám sát cải cách hành chính có nhiều nội dung. Một là, giám sát quá trình xây dựng và thực thi chính sách pháp luật nhất là sự tham gia ý kiến của người dân vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật và việc tiếp thu của cơ quan có thẩm quyền, soạn thảo và ban hành nhất là những chính sách pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người dân trong đó có những quy định về thủ tục hành chính. Hai là, giám sát việc thực hiện tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Ba là, giám sát việc giáo dục - đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về phẩm chất đạo đức và năng lực thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và tinh giảm biên chế cán bộ, công chức. Bốn là, giám sát việc cải cách tài chính công nhằm đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia, thực hiện công khai minh bạch về tài chính công, đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Dịch vụ công là những hàng hoá và dịch vụ do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan công quyền cung cấp hoặc quản lý công tác cung cấp dịch vụ công, bảo đảm mức độ hài lòng của người dân như điện nước giao thông nhất là lĩnh vực y tế giáo dục và các công việc hành chính khác mà người dân phải thực hiện theo yêu cầu của Nhà nước.

Về hình thức giám sát tương tự như quy định của pháp luật về giám sát hoạt động của đại biểu dân cử. Đó là cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để nhận xét đánh giá về hoạt động của đại biểu Quốc hội đại biểu Hội đồng Nhân dân tức là thông qua ý kiến của cử tri nơi trực tiếp bầu ra đại biểu đó do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương tổ chức để nhận xét đánh giá chất lượng hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đại biểu do vậy hình thức giám sát việc thực hiện cải cách hành chính và chất lượng dịch vụ công cũng được thực hiện thông qua ý kiến nhận xét đánh giá của người dân vì họ là những người trực tiếp tham gia vào quá trình cải cách hành chính nhất là thủ tục hành chính và thụ hưởng các dịch vụ công từ các cơ quan Nhà nước.

Như vậy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát cải cách hành chính và chất lượng dịch vụ công không chỉ góp phần vào việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh mà còn góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI nêu ra đó là: Ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp; Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhất là ở cấp Trung ương đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; Xác định rõ thẩm quyền trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp uỷ chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền cơ quan đơn vị. Trong ba nội dung trên, nội dung thứ nhất là trọng tâm xuyên suốt và cũng là vấn đề cấp bách nhất.
Luật sư Trần Ngọc Nhẫn--ĐĐKO

Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam



Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam.1 Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc thông qua người bào chữa (NBC) - bao gồm luật sư, bào chữa viên nhân dân (BCVND) hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, vai trò của NBC khi tham gia tố tụng chưa được tôn trọng và quyền có NBC chưa được bảo bảm một cách toàn diện, thậm chí bị vi phạm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này bắt nguồn từ những quy định thiếu nhất quán và không mang tính khả thi. Vì vậy, cần thiết phải sớm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS (BLTTHS) về quyền có NBC. Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách tư pháp. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách đó là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng hơn nữa quyền của NBC và của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.2 Bài viết đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện BLTTHS về bảo đảm quyền có NBC, nâng cao hiệu quả trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
1. Những kiến nghị mang tính định hướng
1.1. Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tố tụng hình sự
Mục đích cuối cùng của TTHS là đảm bảo tính công bằng của pháp luật và hơn hết là đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, tranh tụng công bằng cần phải được nhìn nhận là một yếu tố đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng. Đây là tiền đề cho việc xác định đúng đắn vai trò của NBC cũng như đảm bảo tốt hơn quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Với cách tiếp cận đó, đảm bảo tranh tụng công bằng trong hoạt động TTHS là vấn đề mang tính khách quan. Xét về bản chất, tranh tụng luôn gắn liền với hoạt động tài phán và chỉ có thể được thực hiện trọn vẹn ở phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các bên.3 Tuy nhiên, sẽ là không toàn diện nếu chỉ giới hạn tranh tụng trong phạm vi của phiên tòa hoặc đồng nhất tranh tụng với tranh luận tại phiên tòa; hay chỉ coi các quy định về trình tự, thủ tục xét xử vụ án tại phiên tòa mới là các quy định về tranh tụng.4 Một bản án công bằng phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ chứng cứ của các bên trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án mà không chỉ ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Do đó, cần phải thay đổi quan điểm cho rằng hoạt động tranh tụng là hoạt động chỉ diễn ra ở phiên tòa xét xử. Thực chất, phiên tòa tranh tụng là thời điểm mấu chốt để Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng đối với bị cáo. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự đối tụng công bằng trong các giai đoạn tố tụng tiền xét xử (hoạt động điều tra) sẽ khó đảm bảo tính khách quan và công bằng của bản án. Do đó, mở rộng phạm vi tranh tụng trong giai đoạn điều tra cũng chính là mở rộng phạm vi bảo đảm quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sự hiện diện của NBC trong quá trình điều tra vụ án sẽ góp phần đảm bảo tính khách quan và công bằng cho phán quyết của Tòa án.
Bên cạnh đó, để tranh tụng đạt kết quả, phải ghi nhận “tranh tụng” là phương pháp chủ yếu trong suốt quá trình TTHS mà không chỉ ở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Cần phải hiểu tranh tụng là sự đối tụng công bằng giữa các bên đối trọng nhau về quyền lợi. Muốn đạt được tranh tụng, đòi hỏi các bên phải có những cơ hội ngang bằng nhau về quyền thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ, mà không chỉ đơn thuần là những kết quả thu được từ hoạt động thẩm vấn.
Chúng tôi cho rằng, mở rộng tranh tụng cần thiết phải đi đôi với ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS5. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ sở pháp lý để các bên trong TTHS tiến hành các hoạt động bình đẳng và tuân thủ pháp luật. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng phải dựa trên một số tiêu chí: (i) ghi nhận đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng nhằm phân định rõ các chức năng cơ bản trong TTHS là: buộc tội, bào chữa, xét xử; (ii) quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án phù hợp với chức năng tố tụng của chủ thể đó theo quy định của pháp luật; (iii) quy định đầy đủ các điều kiện bảo đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa bình đẳng với nhau trong tranh tụng.
Từ phương diện bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó trên thực tế. Với quy định hiện hành, pháp luật dường như đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh vụ án lên Hội đồng xét xử, đòi hỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không cần thiết trong tranh tụng, dẫn đến tình trạng Tòa án “lấn sân” các chủ thể khác trong việc thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, hạn chế tính chủ động của các chủ thể đó. Như một tất yếu, chức năng xét xử của Tòa án cũng bị hạn chế. Do đó, ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc tố tụng cơ bản sẽ cân bằng lại vai trò của các bên trước Tòa án, khẳng định hơn nữa vai trò của NBC, đồng thời sẽ là cơ chế bảo đảm hiệu quả nhất quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể được bảo đảm nếu cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT, người THTT là những chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế, không phải tất cả những người THTT đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người THTT phải am hiểu thấu đáo những quy định của pháp luật về quyền có NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền bào chữa, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương III Khoá VIII của Ban Chấp hành trung ương Đảng nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan THTT đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ THTT vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận thức của đội ngũ THTT, phải tập trung một số vấn đề sau:
Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người THTT về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn. Sự có mặt của NBC trong vụ án không gây khó khăn cho các cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ chứ không phải là “đối thủ” của các cơ quan THTT. Vì vậy, người THTT cần phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những người THTT.
1.3. Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân
Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Do đó, cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của NBC là không cần thiết và tốn kém. Nhận thức không đúng về vai trò và vị trí của NBC chính là rào cản lớn làm cho sự tham gia của NBC trở nên khó khăn, trong khi bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa có hiệu quả. Việc NBC tham gia tố tụng để bảo vệ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ, người đại diện hợp pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc thay đổi nhận thức về vai trò của NBC là cách tốt nhất để trang bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những phương tiện, biện pháp giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ phía những người THTT, cơ quan THTT nhằm thực hiện quyền bào chữa của mình.
Đối với NBC, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề là một việc làm cần thiết. NBC phải nhận thức và nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. NBC phải thường xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có hiệu quả.

2.  Những kiến nghị cụ thể
(i) Hiện nay, với quy định hiện hành,6 trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT, bao gồm cả Tòa án. Quy định này cho thấy Tòa án sẽ đồng thời thực hiện hai chức năng, vừa chứng minh tội phạm, vừa xét xử. Cần phải thống nhất quan điểm Tòa án cũng tham gia hoạt động chứng minh bảo vệ công bằng pháp luật nhưng thông qua chức năng xét xử. Quy định như trên vô hình chung đã ràng buộc Tòa án phải làm thay chức năng truy tố buộc tội của Viện Kiểm sát. Nếu chức năng tố tụng không được phân định rõ ràng, nguyên tắc tranh tụng sẽ khó được đảm bảo trên thực tế. Để phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là nâng cao tính tranh tụng của phiên tòa xét xử vụ án hình sự, nên sửa đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng: “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát; Tòa án thực hiện chức năng xét xử; bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội”.
(ii) Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các trường hợp chỉ định NBC có 3 quyền: quyền lựa chọn, quyền yêu cầu thay đổi và quyền từ chối NBC. Tuy nhiên, việc quy định các quyền này chưa rõ ràng và hợp lý, gây khăn trong việc áp dụng pháp luật. Do đó, nên sửa đổi, bổ sung Điều 57 BLTTHS về 3 nội dung:
Thứ nhất, liên quan đến quyền lựa chọn NBC.7 Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định về quyền lựa chọn NBC theo hướng phân định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị can, bị cáo tự thuê với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định.
Với trường hợp NBC do người người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thuê: Quyền lựa chọn NBC cần được quy định theo hướng phân định rõ ràng giữa quyền lựa chọn NBC của bị can, bị cáo là người đã thành niên với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên, họ có quyền lựa chọn và thay đổi NBC cho mình. Trong trường hợp họ không thể trực tiếp mời (thuê) NBC thì người đại diện hợp pháp có thể mời NBC với sự đồng ý của họ.
Đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền lựa chọn NBC. Nếu có sự không thống nhất về việc lựa chọn NBC giữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ, thì quyền quyết định cuối cùng sẽ do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyết định.
Với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định: Để bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có ngay NBC, cần bổ sung khoản 2 Điều 57 BLTTHS về quyền lựa chọn NBC theo hướng: Trong các trường hợp chỉ định NBC, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền lựa chọn NBC dựa trên danh sách các luật sư mà cơ quan THTT cung cấp. Cơ quan THTT có nghĩa vụ tập hợp và cung cấp ngay cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo danh sách các luật sư có đủ năng lực từ các đoàn luật sư.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến quyền từ chối NBC. Sự có mặt của NBC trong trường hợp này là thực sự cần thiết không chỉ đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn đảm bảo tính tranh tụng trong quá trình chứng minh tội phạm. Người chưa thành niên, người có khiếm khuyết về tâm thần hoặc thể chất là đối tượng đặc biệt, hạn chế về nhận thức nên cần thiết phải có NBC trong quá trình TTHS. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, quyền từ chối NBC nên được khuyến cáo hạn chế áp dụng trong những trường hợp có nghi vấn về khả năng tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ví dụ như trường hợp họ là người chưa thành niên hoặc người bị hạn chế về năng lực tâm thần.8 Trong khi một số nước khác không quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền từ chối NBC trong các trường hợp bắt buộc chỉ định NBC.9 Vấn đề bảo đảm quyền trước hết phải xuất phát từ mong muốn của người người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (khi họ hoàn toàn sáng suốt và ý thức được việc từ chối quyền mà pháp luật trao). Do đó, quyền từ chối NBC vẫn cần thiết phải được ghi nhận. Tuy nhiên, khía cạnh đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước và tính công bằng của pháp luật cũng cần phải được tôn trọng. Chính vì vậy, trong những trường hợp nếu thấy rằng quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bị đe dọa vì thiếu vắng sự tham gia của NBC, Nhà nước cần phải cân nhắc, chấp nhận hay không việc từ chối của họ. Quy định như hiện nay tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam là chưa hợp lý.10 Do đó, nên xây dựng một điều luật về quyền từ chối NBC theo hướng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền từ chối quyền có NBC (trừ trường hợp là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất). Đồng thời, quy định các cơ quan THTT có nghĩa vụ giải thích những hậu quả của việc từ chối quyền có NBC; việc từ chối NBC phải đảm bảo trong điều kiện người từ chối minh mẫn và tự nguyện; việc từ chối phải lập thành văn bản có chữ ký của người từ chối và xác nhận của cơ quan THTT.
Thứ ba, nên quy định về việc cử NBC dự bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo  trong trường hợp họ gặp khó khăn về việc tự bào chữa do trước đó đã từ chối NBC. Đây là quy định được nhiều nước áp dụng. Quy định mở rộng này sẽ giải quyết được thực trạng khi mà bị cáo đã từ chối NBC ở giai đoại điều tra, nhưng sau đó lại đề nghị được chỉ định NBC tại phiên tòa. Sự tham gia của NBC sẽ đảm bảo tính công bằng trong TTHS. Theo đó, các cơ quan THTT chỉ cần nắm danh sách luật sư của các đoàn luật sư cũng như của các trung tâm trợ giúp pháp lý để dự trù việc cung cấp kịp thời NBC dự bị cho người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tất cả các giai đoạn tố tụng.
Thứ tư, cần mở rộng phạm vi khoản 2 Điều 57 BLTTHS về đối tượng được chỉ định NBC. Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ được chỉ định NBC trong hai trường hợp: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự; b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Quy định này cho thấy phạm vi đảm bảo quyền có NBC là quá hẹp so với quy định của nhiều nước trên thế giới.11 Theo đó, với những người bị cáo buộc về các tội phạm nghiêm trọng, cần thiết phải có cơ chế bảo đảm cho họ có quyền có NBC. Chính vì vậy, nên bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS theo hướng quy định thêm các trường hợp được bào chữa chỉ định, bao gồm những tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự (hiện nay chỉ áp dụng đối với mức tử hình).
(iii) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 58 theo hướng cho phép NBC tham gia từ khi khởi tố bị can đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Sự tham gia của NBC, đặc biệt là của luật sư vào các giai đoạn tố tụng là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quy định như Điều 58 BLTTHS,12 đã hạn chế sự tham gia của NBC trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia; hạn chế quyền của NBC thu thập chứng cứ đối với tài liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác… Nhiệm vụ đảm bảo bí mật an ninh quốc gia là nhiệm vụ tối quan trọng và đòi hỏi sự bảo mật. Tuy nhiên với ý kiến cho rằng sự tham gia của NBC ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng sẽ gây khó khăn cho cơ quan THTT trong việc điều tra vụ án, không bảo đảm bí mật điều tra, làm lộ bí mật nhà nước, bí mật công tác… là không có sơ sở và không thuyết phục. Hơn thế nữa, việc quy định hạn chế trên là không phù hợp với nguyên tắc “Bảo đảm bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”.13Cùng là bị can, bị cáo nhưng các chủ thể trong những trường hợp trên lại không được hưởng trọn vẹn quyền bào chữa theo quy định của pháp luật. Hơn thế nữa, những bị can, bị cáo trong trường hợp này rất cần thiết sự giúp đỡ của NBC bởi tính chất phức tạp của loại tội xâm phạm an ninh quốc gia. Sự tham gia của NBC ngay từ đầu đối với tất cả các vụ án sẽ là điều kiện không những đảm bảo cho việc điều tra đầy đủ, toàn diện và khách quan mà còn giúp đỡ cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa có hiệu quả. Hơn ai hết, khi tham gia vào các vụ án trên, NBC phải hiểu và ý thức được tầm quan trọng của vụ án cũng như xác định trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm bí mật điều tra, bí mật nhà nước. Việc tiết lộ bí mật điều tra, bí mật nhà nước, bí mật công tác… đã có các chế tài pháp luật hình sự khác đủ để điều chỉnh và xử lý NBC nếu họ vi phạm. Vì vậy, đối với quy định tại Điều 58 BLTTHS cần thiết nên sửa đổi theo hướng mở rộng hơn, cho phép NBC có quyền tham gia từ khi khởi tố bị can đối với cả tội xâm phạm an ninh quốc gia.
(iv) Sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLTTHS quy định về sự có mặt và sự tham gia tranh tụng của NBC tại phiên toà. Việc cho phép Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa nếu NBC vắng mặt như hiện nay vô hình chung sẽ tạo điều kiện cho NBC được quyền thiếu trách nhiệm trong việc bào chữa.14 Mặt khác, việc Tòa án tiến hành phiên tòa thiếu sự có mặt của NBC sẽ khiến cho việc đánh giá chứng cứ không khách quan, vì bản án của Tòa án đưa ra phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ và khách quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và cả những chứng cứ khác phát sinh trong quá trình xét xử tại phiên tòa. Chính vì vậy, nên quy định sự có mặt của NBC là bắt buộc. Mọi trường hợp vắng mặt NBC, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
(v) Các trình tự tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải được tiến hành trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng - một đặc tính của tố tụng tranh tụng (adversary legal system). Theo đó, phiên tòa xét xử phải được quy định là một phiên tòa tranh tụng (adversarial trial). Thủ tục xét hỏi tại phiên toà (từ Điều 206 đến Điều 216 BLTTHS) phải được sửa đổi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh tụng giữa các bên, giữa bên bào chữa và bên buộc tội, mà không chỉ đơn thuần là xét hỏi. Các bên tham gia phiên tòa thực hiện quyền đưa ra các chứng cứ và tiến hành hoạt động đối chứng. Thẩm phán lắng nghe các bên trình bày chứng cứ và đóng vai trò là người trọng tài, điều khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên diễn ra tại phiên tòa, mà không phải là người thẩm tra. Trách nhiệm của thẩm phán là xem xét các chứng cứ và tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết. Bản án của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng và tuân thủ các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Các kết luận của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát về hành vi phạm tội sẽ là cơ sở pháp lý ban đầu để Tòa án xem xét và cân nhắc khi ra bản án. Điều này, một mặt sẽ giảm bớt gánh nặng của Tòa án trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, mặt khác, đề cao vai trò tranh tụng của các bên, đồng thời nâng cao tính khách quan cho bản án.
(vi) Nên bổ sung một điều luật quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được im lặng.15 Đồng thời quy định điều tra viên có nghĩa vụ phải thông báo và giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền được im lặng cho đến khi có mặt NBC do họ mời hoặc do cơ quan THTT chỉ định. Điều tra viên chỉ được tiến hành lấy lời khai người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trừ khi họ từ chối quyền có NBC.
(vii) Sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NBC khi tham gia vụ án:
- Cần quy định lại Điều 58, khoản 2(b) BLTTHS theo hướng cơ quan THTT có nghĩa vụ phải thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can. NBC có quyền được thông báo mà không chỉ là quyền đề nghị được thông báo như quy định hiện hành.
- Cần quy định nghĩa vụ của cơ quan THTT trong việc tiếp nhận chứng cứ do NBC cung cấp và trách nhiệm của cơ quan THTT phải hỗ trợ NBC trong việc liên hệ với các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tạo điều kiện thuận lợi để thu thập chứng cứ. Đồng thời quy định NBC có quyền được nhận thông báo về việc trưng cầu giám định và kết quả giám định.
- Bổ sung quy định về quyền của NBC được gặp gỡ và trao đổi với thân chủ đang bị tạm giữ, tạm giam. Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998, NBC chỉ được phép trao đổi với thân chủ không quá 1 tiếng đồng hồ cho một lần gặp. Quy định này chưa hợp lý vì không đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động bào chữa. Thời gian 1 tiếng đồng hồ là quá ít trong khi việc gặp gỡ thân chủ đang bị tạm giam luôn gặp khó khăn bởi cơ quan quản lý trại tạm giam.16 Theo đó, cần sửa đổi lại quy định tại điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo hướng NBC không bị giới hạn số lần và thời gian tiếp xúc với thân chủ của mình. Việc trao đổi có thể trực tiếp hoặc qua thư từ, trừ những trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam vi phạm những tội xâm phạm an ninh quốc gia thì việc trao đổi bằng thư từ sẽ không được phép.
- Nên bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC. Hiện nay, theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS, NBC muốn tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án cấp giấy chứng nhận NBC. Các cơ quan này cũng có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận NBC nhưng phải nêu rõ lí do. Quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC xuất phát từ việc ngoài luật sư, còn có những người khác (BCVND hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được tham gia vụ án như NBC để giúp đỡ họ. Những người này không phải là luật sư chuyên nghiệp và không bắt buộc phải là người có đầy đủ kiến thức về pháp luật. Do đó, họ cần thiết phải được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trước khi tham gia là NBC trong vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, khi những người này tham gia bào chữa, họ đương nhiên phải xuất trình văn bản yêu cầu NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo kèm them giấy giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nếu là BCVND. Trên cơ sở đó, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án phải xem xét và quyết định có chấp nhận hay không chấp nhận cấp giấy chứng nhận NBC. Hiện tại, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành mẫu Giấy chứng nhận NBC và mẫu Quyết định thu hồi giấy chứng nhận NBC trong trường hợp NBC vi phạm các quy định của BLTTHS về hoạt động bào chữa. Tuy nhiên, đối với Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát, vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Đây là một thiếu sót cần phải sớm được bổ sung và hoàn thiện. Việc quy định thiếu đồng bộ về thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa như hiện nay đã dẫn đến tình trạng gây khó khăn từ phía cơ quan THTT có thẩm quyền, mà thông thường là việc chậm cấp giấy chứng nhận NBC17… Điều này gây cản trở và ảnh hưởng đến hoạt động của NBC.
Tại nhiều nước trên thế giới, luật sư chỉ cần xuất trình thẻ luật sư khi tham gia bào chữa mà không phải làm bất cứ một thủ tục hành chính nào trước cơ quan THTT. Thẻ luật sư là căn cứ pháp lý để luật sư được quyền tham gia tố tụng với tư cách là NBC. Đối chiếu với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC đã làm phức tạp hơn các thủ tục hành chính, đồng thời làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong hoạt động bào chữa của NBC, thậm chí gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (khi cơ quan THTT gây khó dễ trong việc cấp giấy chứng nhận NBC). Pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho NBC để họ tham gia vào vụ án bảo vệ cho thân chủ một cách hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải thiết lập một kênh thông tin giữa các cơ quan THTT với các đoàn luật sư, cũng như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tình trạng của luật sư và BCVND. Điều này sẽ cho phép loại bỏ những trường hợp NBC không đủ điều kiện tham gia bào chữa. Ngoài ra, cũng nên bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC; thay vào đó, NBC chỉ cần phải trình cho cơ quan THTT những loại giấy tờ cần thiết liên quan đến việc bào chữa như: văn bản yêu cầu NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (trong trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định, không cần phải có văn bản này); thẻ luật sư (nếu là luật sư); giấy giới thiệu của văn phòng luật sư hoặc của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nếu là BCVND).
- Phát triển đội ngũ NBC nhằm đáp ứng tốt nhu cầu được trợ giúp pháp lý.
Đào tạo đội ngũ luật sư: Luật sư là lực lượng nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý nói chung và tham gia bào chữa trong vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, số luật sư hiện nay trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu được tư vấn pháp lý và bào chữa18. Trước thực trạng trên, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu của Chiến lược là đến năm 2020, phát triển số lượng khoảng từ 18.000 - 20.000 luật sư, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Hy vọng với định hướng phát triển này sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ về đội ngũ luật sư, đó là: (i) mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề luật sư đối với viên chức nhà nước đang là giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại học. Giảng viên luật tại các trường đại học là những người có nền tảng kiến thức pháp luật vững chắc và phù hợp với nghề luật sư. Việc tham gia của đội ngũ giảng viên luật trong hoạt động nghề nghiệp luật sư không chỉ đáp ứng về mặt chất lượng mà còn bổ sung hiệu quả về số lượng luật sư đang thiếu hụt. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Luật sư được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, những giảng viên luật là viên chức nhà nước đã có chứng chỉ và đang hành nghề luật sư buộc phải lựa chọn hoặc từ bỏ viên chức nhà nước để tiếp tục hành nghề hoặc ngược lại.19 Quy định này được cho là phù hợp với Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003.20 Tuy nhiên hiện tại, Luật Viên chức đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào ngày 1/1/2012 là cơ sở pháp lý cho phép viên chức nhà nước được tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp phù hợp với chuyên môn và không trái pháp luật.21 Vì vậy, cần sớm bổ sung quy định của Luật Luật sư theo hướng mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề đối với giảng viên dạy luật là viên chức tại các trường đại học công lập; (ii) mở rộng hợp tác đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề; tăng cường hợp tác trao đổi với các tổ chức luật sư nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm; nâng cao mức thù lao chi phí đối với luật sư chỉ định. Hiện nay, rất nhiều ý kiến cho rằng, mức thù lao được trả cho luật sư là 120.000 đồng/1ngày làm việc của luật sư đối với những vụ án do cơ quan THTT yêu cầu không hợp lý.22 Để phù hợp với tình hình lạm phát kinh tế và đáp ứng tốt chất lượng bào chữa, Nhà nước cần có chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả cho luật sư chỉ định và không nên đưa ra một mức thù lao áp đặt.
Phát triển trợ giúp viên pháp lý: Mặc dù công tác đào tạo đội ngũ luật sư đã đáp ứng phần nào nhu cầu của người dân về hỗ trợ pháp lý, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, việc đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo mời luật sư tham gia tố tụng là rất khó. Vì vậy, phát triển đội ngũ trợ giúp viên pháp lý ở các địa phương sẽ là giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường hoạt động bào chữa.
Hoàn thiện quy định về Bào chữa viên nhân dân (BCVND): Chức danh BCVND ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước.23 Tuy nhiên, từ năm 1989 đến nay, khi các đoàn luật sư được khôi phục lại thì hoạt động BCVND hầu như chấm dứt, chức danh BCVND chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Hiện tại không có văn bản pháp quy nào quy định về thành lập, tổ chức, quản lý, phát triển đội ngũ này. Do đó, cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống nhất về BCVND. Bên cạnh đó, ban hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của BCVND theo hướng giao cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.
(1) Điều 11 BLTTHS 2003.
(2) Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 22/2/2002 và Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
(3) John H. Langbein, The Origins of the Adversary Trial, Oxford, 2003, tr.23.
(4) Trần Văn Độ, Bản chất tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4/2004.
(5) Hiện tại, BLTTHS năm 2003 dành hẳn một chương (Chương 2) quy định về các nguyên tắc cơ bản (tuy nhiên chưa quy định nguyên tắc tranh tụng).
(6) Điều 10 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”
(7) Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền lựa chọn NBC. Tuy nhiên, cả BLTTHS và văn bản trên đều không phân định rõ ràng quyền lựa chọn NBC này là đối với trường hợp NBC chỉ định hay NBC được  thuê.
(8) Xem ví dụ án lệ Johnson v. Zerbst 304 U.S., đoạn 464-65 (1938) của Tòa án tối cao Mỹ.
(9) Xem ví dụ Điều 141 BLTTHS Đức.
(10) Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị ban, bị cáo có quyền từ chối NBC do họ mời hoặc do cơ quan THTT chỉ định.
(11) Ví dụ, ở Mỹ quyền được chỉ định NBC được áp dụng cho những trường hợp bị cáo buộc về hình phạt tù (xem án lệ: Bett v. Brady, 316 U.S. 455 (1942), Gideon v. Wainwright 372 U.S. 335 (1963), Argersinger v. Hamlin, 407, U.S. 25 (1972)). Ở Đức, việc chỉ định NBC được tiến hành nếu người bị buộc tội bị truy tố về một tội phạm nghiêm trọng hoặc kết quả của việc truy tố là cấm hành nghề (Điều 140 BLTTHS).
(12) Khoản 1 Điều 58 BLTTHS quy định: “…Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để NBC  tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
(13) Điều 5 BLTTHS.
(14) Điều 190 BLTTHS 2003 quy định: “NBC có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. NBC có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu NBC vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử”.
(15) Quyền im lặng là quyền pháp lý cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền này được ghi nhận rất sớm ở Anh vào thế kỷ 16. Nền tảng lý luận của quyền im lặng xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng giữa quyền lực nhà nước và quyền công dân. Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bắt buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc không buộc phải nhận mình phạm tội. Nhà nước có nghĩa vụ phải tìm kiếm chứng cứ để chứng minh những cáo buộc của mình. (Xem: Ronald Banaszak, Fair Trial Rights of the Accused, Greenwood Press, 2002, tr.10). Nội dung này được ghi nhận tại Điều 14.3(g) Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.
(16) Phát biểu của nhiều luật sư tham dự Hội thảo quốc tế về “Quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam” do Liên đoàn Luật sư Việt Nam phối hợp với UNDP (Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc) tổ chức vào ngày 02-03/12/2010 tại Tp. Hồ Chí Minh.
(17) Theo khoản 4 Điều 56 BLTTHS thì trong thời hạn 3 ngày (hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ) kể từ ngày nhận được đề nghị của NBC kèm theo những giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận NBC để họ thực hiện việc bào chữa.
(18) Theo kết quả khảo sát của Liên đoàn luật sư, đến cuối năm 2009, trong cả nước có 62 Đoàn luật sư với hơn 5.000 luật sư và 2000 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 1.500 tổ chức hành nghề luật sư. Cũng theo khảo sát này, tỷ lệ số luật sư trên dân số ở Việt Nam là 1 luật sư/hơn 17.000 người dân. Tỉ lệ này là quá thấp so với các nước lân cận (Thái Lan: 1/1.526, Singapore: 1/1.000, Nhật Bản: 1/4.546).
(19) Luật Luật sư quy định những người đang là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước đã được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư sẽ bị thu hồi.
(20) Điều 17 Pháp lệnh Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư.” Hiện tại, văn bản này đã bị hủy bỏ và được thay thế bằng Luật Cán bộ, Công chức có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
(21) Điều 14 Luật Viên chức 2010.
(22) Khoản 1, Điều 11 Nghị định 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư.
(23) Điều 1 Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 ghi nhận: “Từ nay, trước các Toà án thường và Toà án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Toà án binh tại mặt trận, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận.”

TCNCLP--(*) ThS. Lương Thị Mỹ Quỳnh - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Tuesday, January 17, 2012

Ý chí quốc hội và thực tiễn cuộc sống


 Luật pháp sinh ra không phải để cai trị dân như chỉ dụ của nhà Vua mang tính ban phát, thượng lệnh, mà với mục đích hoàn toàn tốt đẹp, nhằm bảo đảm hành lang pháp lý cho mọi hoạt động cá nhân và pháp nhân được tối ưu như có thể.
Mọi quốc gia theo mô hình dân chủ nghị viện đều hiến định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất; Việt Nam cũng không ngoại lệ, được quy định tại Điều 83, Hiến pháp 1992. Nhưng quyền lực cao nhất của Quốc hội khác với của Vua trong thể chế quân chủ, ở chỗ, Vua đứng trên Hiếp pháp và pháp luật; còn Quốc hội đặt dưới Hiến pháp do toàn dân phúc quyết, và phải tuân thủ pháp luật do chính mình ban hành.
 Vua toàn trị quyết định đến tận mọi thần dân, mọi ngõ ngách cuộc sống, kể cả tình cảm, gia đình, tập quán, tôn giáo của họ...; còn Quốc hội bị giới hạn trong phạm vi những gì liên quan tới chức năng nhà nước vốn được coi là công cụ phục vụ cho lợi ích của chủ nhân người dân. Vua thực hiện quyền lực bằng chỉ dụ, theo nguyên tắc xin cho, chưa có lệnh vua thì đố ai dám làm vượt quá giới hạn hiện tại; còn quốc hội thông qua chức năng lập pháp, nghĩa là ban hành các văn bản luật thể hiện ý chí của mình trong khuôn khổ Hiến pháp, để điều chỉnh các mối quan hệ pháp lý, theo nguyên lý: người dân được phép làm tất cả, trừ những gì luật pháp cấm và ngược lại nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép. Nghĩa là quyền của người dân là vô hạn, quyền của nhà nước là giới hạn. Nói đến dân chủ bao giờ cũng kèm theo khái niệm pháp trị hay pháp quyền chính hiểu theo nguyên lý trên.
Rốt cuộc lại, số phận, tiền đồ của quốc gia quân chủ hoàn toàn do Vua quyết định, tên tuổi Napoleon ở Pháp hay Nhật hoàng Minh trị hiển hách lịch sử nước họ là bởi vậy; trong khi thế giới hiện đại lại được quyết định không phải bởi Quốc hội, hay Đảng phái, Tống thống, Thủ tướng vốn  luôn thay đổi, mà bởi chính nhân dân họ, dân tộc họ vốn trường tồn với mọi biến đổi thể chế; mọi quốc gia có sánh vai được với cường quốc năm châu hay không, là do toàn dân họ, cả dân tộc họ quyết định, không thể thay thế bởi bất cứ siêu nhân nào. Câu ngạn ngữ Pháp, "dân nào chính phủ nấy" chính mang hàm nghĩa sâu sắc trên, đừng ỷ lại quốc hội, chính phủ, mà phải làm chủ nó.
Như vậy, dù Quốc hội có ban hành đầy đủ luật hay không, thì ở thế chế dân chủ pháp quyền, mỗi người dân vẫn là một công dân tự do định đoạt cuộc sống và tương lai của họ, tổng hợp lại là số phận và tiền đồ đất nước họ. Hoàn toàn không có nghĩa, không có luật thì người dân đành ở nhà chờ, nếu không sẽ hậu hoạ như trong chế độ quân chủ, bởi quyền cơ bản của họ đã được Hiến định, nhà nước sinh ra để bảo đảm quyền đó; thực tế ở ta, người dân vẫn mua nhà đất xưa nay, mặc dù sau này mới có luật nhà đất, doanh nghiệp đã có từ khi luật doanh nghiệp chưa ban hành; trên thế giới hiếm quốc gia nào không có mại dâm nhưng chỉ số ít có luật hành nghề mại dâm.
Xa hơn, biểu tình ở ta đã có từ trước độc lập năm 1945, tới năm 1946 mới có sắc lệnh Chủ tịch nước (văn bản lập pháp) yêu cầu biểu tình phải đăng ký trước; ở Đức cũng vậy, năm 1953 Luật tụ tập biểu tình mới ra đời, luật biểu tình chỉ có nghĩa để nhà nước bảo đảm chắc chắn quyền đó, chứ không nhằm cho phép hay hạn chế nó, vốn đã hiến định, nhà nước không được vi hiến. Đó chính là thực tiễn cuộc sống. Nó luôn chảy như dòng sông bất tận, không thể dừng lại chờ hay bị chặn bởi ý chí quốc hội.
Tuy nhiên, Quốc hội được hiến định là đại biểu cho toàn dân, nên thiếu luật do nó ban hành, thì dòng sông cuộc sống sẽ chảy rất bất trắc, rủi ro cho từng cá nhân lẫn nhóm lợi ích và cả quốc gia, vì thiếu khung pháp lý để tất cả tuân theo. Do vậy, luật pháp Quốc hội ban hành chính nhắm vào và loại bỏ những bất trắc, rủi ro có thể  xảy ra đó. Nói cách khác ý chí Quốc hội phải theo thực tiễn cuộc sống đòi hỏi chứ không phải ngược lại áp đặt ý chí quốc hội cho cuộc sống.
Giải thích tại sao, Quốc hội Đức, bình quân mỗi năm thông qua trên 100 văn bản Luật, tính ra mỗi tuần tới 2 luật, và được đặt lên bàn nghị sự  khi vấn đề nảy sinh, có những luật ban hành chỉ sau vấn đề nảy sinh chưa đầy tháng như  vụ học sinh Tim K, 17 tuổi, cuồng sát ngày 11.3.2009 tại tiểu bang Baden-Württemberg, làm 16 người thiệt mạng, sang đầu tháng 4.2009, cả Hạ viện lẫn Thượng viện đã thông qua  dự luật áp dụng hệ thống đăng bạ quốc gia về sở hữu vũ khí, để tránh cuồng sát lặp lại cho dân. Trong khi đó, chương trình xây dựng luật Quốc hội nước ta cho cả khoá XIII, 5 năm, dự kiến tối đa chỉ 115 dự án luật, tương đương 1 năm thực hiện của họ, tính tỷ lệ ít gấp họ tới 500%.
Nếu lấy mục tiêu trình độ kinh tế xã hội nước họ phấn đấu, thì hiện chúng ta đang tụt hậu về tốc độ ban hành văn bản pháp luật so với họ tới 5 lần/1 năm, và do điểm xuất phát hiện nay của ta thua họ nhiều lần nên trong tương lai khoảng cách tụt hậu pháp lý giữa ta và họ không những không rút ngắn mà ngày một doãng rộng hơn, nếu không được nhanh chóng tăng tốc.
Một khi tốc độ ban hành luật đã không thể theo kịp thực tiễn cuộc sống đòi hỏi như nước họ, thì mấu chốt luật phải ưu tiên nhắm vào những vấn đề cấp bách nhất, là những vấn đề dẫn tới cả nhà nước lẫn người dân đều hệ lụy nghiệm trọng, nếu thiếu những chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự pháp lý dành cho nó, điển hình như vấn đề biểu tình.
Luật pháp sinh ra không phải để cai trị dân  như chỉ dụ của nhà Vua mang tính xin cho mà để bảo đảm hành lang pháp lý cho mọi hoạt động cá nhân và pháp nhân được tối ưu như có thể - mục đích hoàn toàn tốt đẹp. Có thể hiểu điều đó, từ cách gọi các cơ quan nhà nước ở ta, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, công an nhân dân, quân đội nhân dân... được hiểu sinh ra để phục vụ nhân dân chứ không phải cai trị nhân dân. Luật pháp  cũng vậy, tên các luật phải thể hiện được mục đích của nó, chứ không nhằm cấm đoán hay giới hạn đối tượng bị điều chỉnh. Chỉ khi đó mới thấy thực sự luật nào cần thiết hơn luật nào.
Chẳng hạn ở ta có Luật Quảng cáo sẽ được thông qua tại kỳ họp này. Tên gọi trên làm cho người đọc hiểu như một lệnh, chỉ thị, quy định ai được quảng cáo, quảng cáo như thế nào, xin phép ra sao, ai cho phép.v.v.v. Ở Đức luật này có tên gọi "Luật chống quảng cáo không lành mạnh", coi quảng cáo hệt như lao động hoàn toàn tự do muôn mầu muôn vẻ, quyền của người dân, chẳng cần tới luật, nó chỉ đưa ra những loại quảng cáo nào bị cấm, và nếu vi phạm thì bị chế tài như thế nào, chấm hết.
Hay Bộ luật Lao động ở ta, người đọc có thể hiểu quy định tất tần tật về lao động. Ở Đức có một luật tương đương được gọi là Luật chống thải hồi lao động, dài 21 điều, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động trước sức mạnh của chủ thuê việc. Với mục đích luật pháp như trên, thì dự án "Luật nhà văn, nhà thơ" đang bị dư luận chỉ trích dữ dội vừa qua, đổi thành "Luật bảo vệ quyền lợi nhà văn nhà thơ" chắc chắn sẽ được đồng tình ủng hộ, bởi thực tế cả trong quá khứ lẫn hiện nay đã chứng minh đòi hỏi đó.
Nguồn: Vietnamnet

TCNCLP---TS. Nguyễn Sỹ Phương

Công khai quyết định hành chính – sự bảo đảm quyền công dân




Một quyết định hành chính không được công khai đến người thi hành và người liên quan sẽ gây ra những hậu quả pháp lý gì? Thực tiễn pháp luật Việt Nam ra sao, và đâu là giải pháp của các nước xung quanh liên quan đến vấn đề này?
Không ở tầm vĩ mô, khái quát như các văn bản lập pháp, cũng không chịu sự điều chỉnh chặt chẽ về thể thức như các văn bản tố tụng, các quyết định hành chính (QĐHC) lại là loại văn bản phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày và cũng đụng chạm nhiều nhất đến quyền, nghĩa vụ của công dân. Chưa bàn về tính hợp pháp hay hợp lý của các văn bản này - điều không chỉ đo đếm được về mặt pháp luật mà còn cả kỹ thuật - mà một công đoạn rất nhỏ trong quy trình ban hành QĐHC: công khai quyết định đến người thi hành và người có liên quan, cũng có thể gây nên những ảnh hưởng lớn. Việc “bỏ quên”, không truyền đạt QĐHC đến người có liên quan không phải là hiếm trong thực tế. Xin lấy ví dụ về một bản án đã xét xử tại Tòa án nhân dân (TAND) liên quan đến vấn đề này: “Xuất phát từ việc UBND tỉnh K. ra Quyết định thu hồi đất của gia đình ông B. để giao cho Công ty du lịch M., trong khi ông B. đang khởi kiện Quyết định thu hồi đất, UBND tỉnh K. có Quyết định số 2435/QĐ-UB ngày 1/1/2001 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty du lịch M. Ông B. không nhận được Quyết định số 2435/QĐ-UB mà chỉ được biết việc này khi TAND huyện thông báo cho ông khi giải quyết vụ án hành chính khác do ông B. khởi kiện. Do vậy ông B. đã khởi kiện Quyết định 2435 của UBND tỉnh.
Ngày 20/3/2003, TAND tỉnh K. đã căn cứ vào ngày ban hành Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND tỉnh… để trả lại đơn kiện của ông B. với lý do: đã quá thời hiệu khiếu nại.”1.
1. Rủi ro pháp lý từ việc không công khai quyết định hành chính đến người thi hành và các bên liên quan
- Đối với đối tượng thi hành và các bên liên quan đến quyết định: Có thể thấy rằng, đây là nhóm đối tượng chịu thiệt thòi trực tiếp nhất từ việc không công khai QĐHC. Quyền lợi của người thi hành và các bên liên quan sẽ bị ảnh hưởng. Ví dụ: do không biết về ngày được triệu tập đến dự họp, dự thi, tham gia đấu thầu… nên những thời hạn này trôi qua, người dân mất quyền tham gia vào các sự việc đó. Điển hình trong ví dụ trích dẫn trên, người dân (ông B) có thể bị mất quyền khởi kiện do thời hiệu khởi kiện đã không còn (nếu Tòa án cấp phúc thẩm hay giám đốc thẩm không coi lỗi của cơ quan hành chính (CQHC) là một “trở ngại khách quan” cho phép người dân được kéo dài thời gian khởi kiện). Về mặt pháp luật, điều này là không thể chấp nhận được trong một hệ thống pháp luật hiện đại: nguyên tắc an toàn pháp lý không được đảm bảo, quan hệ giữa nhà nước - công dân thiếu vắng sự minh bạch, công khai.
- Chính CQHC cũng chịu những hậu quả nhất định: vắng người thi hành, một số thủ tục hành chính (TTHC) sẽ không thể thực hiện được, hoặc phải trì hoãn, gây tốn kém thời gian, sức lực và cuối cùng, hiệu quả công việc kém. Mặt khác, nếu tiến hành thủ tục vắng mặt người liên quan, rất khó ra một quyết định đảm bảo tính khách quan, toàn diện hay hợp lý. Hơn nữa từ việc không được biết về QĐHC, mất một số quyền lợi hợp pháp hay vẫn phải gánh chịu các nghĩa vụ phát sinh, tất yếu dẫn đến việc người dân phản đối lại các quyết định này. Từ khả năng này, dễ dẫn tới khiếu nại, khiếu kiện, tăng thêm gánh nặng cho hoạt động hành chính, vốn đã thường xuyên quá tải.
- Toà án hành chính cũng có thêm nhiều rủi ro: đó là thêm gánh nặng vụ việc xét xử nếu giải quyết bởi con đường hành chính không xong. Chưa kể đến những cơ quan, đoàn thể nhất định cũng có thể phải chịu ảnh hưởng nếu người liên quan cầu viện tới họ trong tranh chấp.
Tóm lại, việc không công khai QĐHC có thể dẫn đến những hệ lụy lớn không chỉ cho các bên liên quan mà thậm chí ảnh hưởng đến một phạm vi xã hội nhất định.
2. Pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ công khai các quyết định hành chính đến người thi hành
Cùng với cải cách hành chính, trong những năm gần đây, việc công khai hoá QĐHC dần dần được coi trọng ở nước ta. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (BHVBQPPL) năm 2008 cũng như Luật BHVBQPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) đều quy định rõ trình tự, cách thức và thời hạn để công bố các văn bản quy phạm của trung ương cũng như địa phương. Cụ thể, theo Luật BHVBQPPL 2008: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này” (khoản 2 Điều 78 Luật BHVBQPPL).  
Nhưng đặt trong tương quan với các văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản cá biệt - hay còn gọi là QĐHC - lộ rõ  “thế yếu” trong lĩnh vực này. Nghĩa vụ công khai các QĐHC (cá biệt) chưa được quy định chung trong một văn bản pháp luật nào, mà nếu có thì cũng chỉ rải rác trong từng lĩnh vực khác nhau. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi các QĐHC (quyết định cá biệt) đa dạng vô cùng, cho nên khó có thể có một “bộ luật chung cho các QĐHC cá biệt”. Người ta chỉ có thể quy định những khuôn mẫu chung cho QĐHC về mặt thể thức, chứ không thể là nội dung. Ở nước ta, Dự thảo Luật TTHC - đã nhiều lần được đưa ra bàn bạc - cũng hy vọng nhắm đến một trong những vấn đề này: thủ tục để ban hành QĐHC, trong đó bao gồm cả nội dung công khai QĐHC. Tuy nhiên hiện thời, pháp luật mới chỉ tập trung vào một số nhóm quyết định quan trọng, thường là có nguy cơ xâm hại trực tiếp tới quyền và tự do của công dân, như: quyết định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC), QĐHC trong lĩnh vực đất đai, kỷ luật công chức v.v.. Điều đáng nói là ngay cả trong những trường hợp đã có quy định về công khai QĐHC, nhưng đôi khi nhiều nội dung vẫn còn vắng bóng, như: (i) nhiều lĩnh vực không rõ thời hạn công khai QĐHC đến người thi hành, đơn cử trong một số lĩnh vực mà TTHC đã khá chặt chẽ, vẫn tồn tại các quy định về thời hạn không thực sự rõ ràng; (ii) hoặc không quy định thời hạn công khai QĐHC là bao lâu, ví dụ, đối với việc tạm giữ tang vật phương tiện VPHC - một biện pháp mà tính tổn hại đến quyền sở hữu của công dân là không phải bàn cãi - nhưng thời hạn công khai quyết định này hoàn toàn không rõ. Theo khoản 6 Điều 46 Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung 2007 và 2008): “Việc tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC phải có quyết định bằng văn bản kèm theo biên bản tạm giữ và phải giao cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm một bản”, nhưng không hề có quy định pháp luật nào đề cập đến khoảng thời gian để giao quyết định này là bao lâu.
Nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác cũng thiếu vắng các quy định thời hạn. Ví dụ trong việc phê duyệt chủ trương thành lập Trường đại học, Quyết định số 07/2009 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/1/2009 ban hành điều kiện thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể Trường đại học có quy định: “Thời gian hoàn thành việc thẩm định không quá 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ Dự án đầu tư thành lập trường và Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thông báo kết quả thẩm định hồ sơ cho chủ đầu tư Dự án xin thành lập trường”; và “Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định cụ thể về thẩm quyền và quy trình làm việc của Hội đồng thẩm định nêu trên và có trách nhiệm hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ trong quá trình xử lý và thông báo về kết quả cho chủ đầu tư dự án biết đối với những hồ sơ không được phê duyệt” (khoản 6 Điều 3 Quyết định số 07/2009 QĐ-TTg). Ở đây, thời hạn để Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo kết quả thẩm định đến chủ đầu tư hoàn toàn không xác định!
Cũng như vậy, khoản 2 Điều 49 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư: “Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, cơ quan tiếp nhận đầu tư thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư biết để sửa đổi, bổ sung hồ sơ” và khoản 7  Điều 49: “Trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận, cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư gửi thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, trong đó nêu rõ lý do”. Việc để ngỏ quy định thời hạn sẽ là rất nguy hiểm, bởi lẽ kèm theo đó là nguy cơ kéo dài TTHC, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp.
Việc quy định nghĩa vụ cho CQHC phải công khai các quyết định của mình đến người có liên quan là một điểm tiến bộ nổi trội trong cải cách TTHC, phản ánh trách nhiệm của công quyền trước công dân. Tuy nhiên, bước tiến này vẫn còn ít nhiều hạn chế bởi thời hạn công khai lại không được ấn định rõ ràng.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật có quy định về thời hạn công khai, nhưng theo kiểu chung chung, không xác định. Ví dụ, tại khoản 4 Điều 71 Pháp lệnh Xử lý VPHC có quy định đối với quyết định đưa vào trường giáo dưỡng: “Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người được đưa vào trường giáo dưỡng, cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó, cơ quan Công an cấp huyện, HĐND cấp huyện và UBND cấp xã nơi người đó cư trú”. Và, “trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với gia đình hoặc người giám hộ đưa người phải chấp hành quyết định vào trường giáo dưỡng”. Vấn đề là thời điểm gửi quyết định đến người thi hành không rõ: gửi ngay - có nghĩa là cùng ngày hay sau đó bao lâu? - bởi trong quá trình ban hành QĐHC này, không có sự tham gia của người phải thi hành. Và liệu quyền công dân, nguyên tắc an toàn pháp lý và các nguyên tắc khác của Nhà nước pháp quyền liệu có được đảm bảo nếu người bị thi hành không nhận được quyết định trong vòng 05 ngày, mà vẫn bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng?
Nhiều văn bản pháp luật cũng không quy định rõ về hậu quả pháp lý của việc không công khai QĐHC. Phần lớn các văn bản không nêu rõ chế tài đối với việc thiếu công khai hay thực hiện không đầy đủ các quy định về công khai QĐHC. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ, ngay bản thân quy định về thủ tục công khai QĐHC đã vốn dĩ không đầy đủ. Do đó, ngay cả khi có các quy định về công khai QĐHC, chế tài cho việc thiếu sót trong thực hiện thủ tục này không hề rõ ràng. Ví dụ, dùng cho toàn bộ các vi phạm pháp luật liên quan đến xử lý VPHC, chỉ có một quy định theo kiểu chung chung: “người có thẩm quyền xử lý VPHC mà sách nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 121 Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002).
Điều này đặc biệt khó kiểm soát, nhất là trong bối cảnh nước ta - khi mà Tòa án còn phán xét các QĐHC chỉ dựa trên các quy định pháp luật - quyền giải thích pháp luật của Thẩm phán còn hạn chế, nếu không muốn nói là chưa thành hiện thực. Việc quy trách nhiệm cho các vi phạm trong không công khai QĐHC đến người thi hành vì thế càng khó khăn hơn.
 Trong các văn bản pháp luật, việc tính thời hiệu, thời hạn khiếu kiện không dựa trên thời điểm công khai QĐHC đến người thi hành. Trong các cấp độ thiếu công khai QĐHC, theo chúng tôi, đây là cấp độ nguy hiểm nhất: việc tính thời hạn khiếu nại không dựa trên thời điểm công khai QĐHC đến người thi hành thực sự đi trái với nguyên tắc minh bạch, dân chủ, công khai và an toàn pháp lý và không bảo vệ những quyền cơ bản của công dân. Xin dẫn ở đây một vài ví dụ:
Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai, có quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại đối với các QĐHC hay hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai:
“1. Trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có QĐHC trong quản lý đất đai, hoặc cán bộ, công chức thuộc UBND xã, phường, thị trấn, thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường, thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có hành vi hành chính trong khi giải quyết công việc về quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với QĐHC hoặc hành vi hành chính đó, thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
...3. Trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày có quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện ra TAND hoặc khiếu nại đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
 Điều 164 Nghị định 181/2004/NĐ-CP cũng quy định:
“1. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có QĐHC trong quản lý đất đai hoặc cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có hành vi hành chính trong giải quyết công việc về quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó, thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
...3. Trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày có quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện tại TAND”.
 Những quy định trên có thể dẫn đến cách hiểu rằng, thời hạn khiếu kiện được tính từ thời điểm người có thẩm quyền trong CQHC ban hành QĐHC. Trở lại ví dụ về vụ kiện ở phần mở đầu, không phải ngẫu nhiên mà một số nơi hay một số lúc, TAND có những phán quyết về thời hạn khởi kiện như vậy - nếu họ dựa trên căn cứ pháp lý như các điều luật vừa trích dẫn trên.
3. Giải pháp của một số nước về việc công khai quyết định hành chính đến người thi hành
Qua xem xét kinh nghiệm của Pháp - một quốc gia phát triển và có ít nhiều ảnh hưởng đến văn hóa và lịch sử pháp luật Việt Nam - và Thái Lan cùng một số quốc gia khác, có hai vấn đề đặt ra: giải quyết như thế nào hậu quả của việc không truyền đạt quyết định và nếu có thể, thì trình tự truyền đạt quyết định nên quy định như thế nào?
3.1. Hậu quả của việc không công khai QĐHC đến người thi hành
Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, có hai khả năng: thứ nhất, một số QĐHC sẽ không phát sinh hiệu lực nếu chưa được công khai đến người thi hành; và thứ hai, các QĐHC đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa được công khai đến đối tượng thi hành luôn có nguy cơ bị khiếu kiện trong bất cứ lúc nào.
-  QĐHC không phát sinh hiệu lực thi hành nếu chưa được công khai đến người thi hành hoặc dựa trên một quy phạm chưa công khai: Theo án lệ của Cộng hòa Pháp, các quyết định mang tính quy phạm sẽ không phát sinh hiệu lực pháp lý nếu chưa được truyền đạt đến người thi hành (C.E 16/4/1948, Min. de la Production Industrielle ; C.E., 25/11/1949, Caise d’Epargne Ordinaire d’Etampes). Cũng như vậy, không được phép trừng phạt hành vi vi phạm một quy định được nêu trong một văn bản chưa được công bố (Cass. Crim., 27/11/1941). Các thẩm phán hành chính Pháp nhiều lần tuyên bố nguyên tắc: CQHC nếu ban hành QĐHC dựa trên một văn bản chưa được công bố thì quyết định này chưa phát sinh hiệu lực chừng nào văn bản quy phạm kia chưa được công khai (C.E., Syn. Nat. des Chemins de Fer de Franc et des Colonies). Thậm chí nguyên tắc này được quy định rõ trong một số văn bản pháp luật: Luật Tổ chức chính quyền xã có quy định tại Điều 96: “Các văn bản của xã trưởng chỉ bắt buộc thi hành sau khi đã được truyền đạt đến các bên liên quan”.
Tuy nhiên, nguyên tắc này có một ngoại lệ: khá nhiều trường hợp, QĐHC (cá biệt) có thể phát sinh hiệu lực pháp lý ngay cả khi chưa kịp công khai đến người thi hành. Lý do là thời điểm có hiệu lực pháp lý của quyết định không phụ thuộc vào việc truyền đạt đến người thi hành và các bên liên quan. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, hoàn toàn có khả năng là thời điểm có hiệu lực của quyết định hoặc được quy định trong luật; hoặc được xác định ngay trong chính quyết định đó. Mà cả hai điều này đều không có liên quan tới việc người thi hành có nhận được quyết định hay không. Bởi vì về sâu xa, QĐHC khác với hợp đồng: tính song phương của hợp đồng cần có sự thoả thuận cả đôi bên, còn QĐHC có tính đơn phương - nghĩa là chính quyền (đại diện cho lợi ích chung) - có quyền tự quyết định, và vì vậy QĐHC sẽ có hiệu lực thi hành không phụ thuộc vào ý chí bên kia.
Cũng như vậy, pháp luật nước ta cho phép trong nhiều trường hợp, QĐHC phát sinh hiệu lực thi hành một cách đơn phương - không dựa vào thời điểm công khai đến người thi hành. Ví dụ tại khoản 4 Điều 56 Pháp lệnh Xử lý VPHC quy định: “Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác”. Vậy cơ chế nào đảm bảo quyền công dân trong trường hợp này? Câu trả lời nằm trong một chế định pháp luật: cách tính thời hiệu, thời hạn khiếu nại và khởi kiện hành chính. Cụ thể là thời hiệu, thời hạn khiếu kiện chỉ được tính từ ngày mà người thi hành hoặc người liên quan được biết về QĐHC đó.
- Việc không công khai QĐHC đến người thi hành làm kéo dài thời hiệu, thời hạn khiếu kiện hành chính: Khác với thời hiệu, thời hạn khiếu kiện thông thường (vốn giới hạn trong một khoảng thời gian xác định như 1 tháng, 2 tháng....) thì trong trường hợp này, thời hiệu, thời hạn khiếu kiện chỉ bắt đầu tính từ khi người liên quan thực sự biết được quyết định. Luật của Đức quy định: nếu khiếm khuyết trong việc thông báo (thông báo chậm, không rõ ràng), thì thời hiệu khiếu nại QĐHC là 01 năm kể từ ngày công bố quyết định (trong khi thời hạn bình thường chỉ là 01 tháng). Và trong trường hợp do lỗi của CQHC không hề thông báo đến người liên quan, thì thời hiệu khởi kiện là vô cùng: bất cứ khi nào người liên quan cũng có quyền khiếu nại2.
Có thể thấy, tuy nguyên tắc an toàn pháp lý bị vi phạm ít nhiều, nhưng bù lại, quyền lợi của người liên quan được bảo đảm, và quan trọng hơn, trách nhiệm của hành chính bị truy đuổi đến tận cùng.
Tương tự như vậy trong luật của Pháp, nếu một QĐHC không được thông báo hay thông báo không hợp lệ đến người liên quan, thời hiệu khiếu kiện chống lại quyết định đó là không xác định, bất cứ lúc nào người liên quan cũng có quyền khởi kiện. Theo án lệ Les Hortensias của Hội đồng Nhà nước Pháp (Conseil d’Etat), một xã trưởng không thể vin lý do là đã quá thời hiệu khởi kiện để không xem xét yêu cầu của đương sự chống lại quyết định của ông ta. Thời hiệu không đặt ra trong trường hợp này, bởi lẽ, quyết định của xã trưởng đã không được thông báo đúng thể thức: niêm yết ở trụ sở xã và trên thửa đất xây dựng có liên quan3.
Riêng với quyết định ngầm (im lặng) thì không đặt ra thời hiệu, bởi với loại quyết định này không có thông báo, nên đồng thời đi kèm với rủi ro: có thể bị kiện và bị huỷ bỏ bất kỳ thời điểm nào4. Cũng có thể coi đây là một chế tài áp dụng cho việc không thông báo của CQHC vậy.
 Đi xa hơn nữa trong việc bảo vệ quyền công dân, án lệ Pháp đã đưa ra một số quy tắc: nếu một quyết định có lợi cho người liên quan thì khắc có hiệu lực thi hành mà không liên quan đến việc người liên quan có biết về quyết định đó hay chưa (Án lệ Deville, Conseil d’’Etat 10/1/1958); ngược lại, quyết định không có lợi cho người liên quan thì chỉ có thể có hiệu lực thi hành nếu như đã được thông báo (Án lệ Bà Lefranc, Conseil d’Etat 28/11/1952)5.
Quy tắc về thời hiệu nói trên tạo ra một sự “cân bằng” nhất định trong mối quan hệ giữa công quyền - công dân: chừng nào mà QĐHC chưa được công khai bởi công quyền thì chừng đó còn tồn tại rủi ro QĐHC đó có thể bị khởi kiện và tuyên hủy. Nguy cơ bị kiện sẽ đeo đẳng cùng với QĐHC không đảm bảo thủ tục công khai đó. Đây chính là một “chế tài” cho QĐHC thiếu công khai, và cũng là một đảm bảo cho quyền công dân. Với nguy cơ từ rủi ro đó, chắc sẽ tạo nên áp lực để CQHC thực hiện nghĩa vụ công khai các QĐHC của mình.
 Tuy nhiên, tất cả các giải pháp trên đều chỉ là cứu vãn tình thế. Điều mong muốn nhất là không xảy ra những “sự cố” trong giao tiếp giữa hành chính và người dân. Muốn vậy, cần có sự công khai rành rọt về QĐHC. 
3.2. Truyền đạt quyết định đến người thi hành 
- Theo luật của Vương quốc Thái Lan (Đạo luật năm 1996 về việc công bố các QĐHC không mang tính quy phạm), thông báo có thể trực tiếp bằng miệng hay văn bản. Trong trường hợp bằng văn bản thì có thể thực hiện bằng thư bảo đảm, thời hạn coi như người liên quan đã nhận quyết định ở trong nước là 07 ngày, ở nước ngoài là 15 ngày. Tuy nhiên, trong trường hợp liên quan đến hơn 50 người thì có thể thông báo bằng cách niêm yết tại trụ sở CQHC nơi đương sự cư trú, với điều kiện là CQHC phải thông báo ngay từ đầu cho các đương sự biết về việc niêm yết này. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày niêm yết, coi như là các đương sự đã được biết về QĐHC. Ngoài ra, có thể niêm yết khi CQHC không biết đích xác đối tượng cần thông báo, hoặc có biết đối tượng nhưng không nắm được nơi cư trú. Hơn nữa, trong trường hợp khẩn cấp có thể thông báo bằng việc gửi fax.
- Thông báo đương nhiên là gửi cho bản thân người có liên quan trong QĐHC. Đối với một số trường hợp đặc biệt, án lệ Pháp cho phép những ngoại lệ, như có thể gửi cho người gác cổng khu nhà đương sự ở hoặc đóng trụ sở (Án lệ 18/5/1945 Công ty hỗ trợ quản lý và phát triển, Hội đồng Nhà nước Pháp); nhưng nếu gửi cho chị của đương sự thì lại coi là không hợp lệ (án lệ 9/5/1962, xã La Saule). Trường hợp đương sự cố tình không nhận quyết định (không nhận thư bảo đảm; không ký vào giấy giao nhận tài liệu; không đi ra bưu điện lấy QĐHC theo giấy triệu tập...) thì chủ thể ra QĐHC không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào khi thi hành cũng như thời hiệu khiếu nại.
Theo luật Thái Lan, thông báo phải gửi cho đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Trường hợp đương sự từ chối hoặc vắng mặt, đạo luật 1976 cho phép gửi thông báo đến một người đã thành niên cùng ở chung nhà với đương sự; hoặc chủ nơi đương sự làm việc. Trong trường hợp vẫn từ chối thì có thể niêm yết ngay tại các địa điểm nói trên6.
- Việc thông báo phải hoàn chỉnh, nghĩa là phải làm cho đương sự hiểu nội dung QĐHC. Cách tốt nhất là cần gửi toàn văn QĐHC đến người liên quan. Tuy nhiên, án lệ hành chính Pháp cũng cho phép một vài ngoại lệ: việc đọc QĐHC kèm theo ký xác nhận đã nghe của đương sự cũng có thể coi là đã hoàn thành thủ tục thông báo (C.E., 28/3/1950, Resset, 200); hoặc có thể chỉ cần trích dẫn QĐHC cũng đã đủ hiểu nội dung, bản chất QĐHC. Nếu thông báo không đầy đủ thì hậu quả có thể là sẽ kéo dài thời hiệu khởi kiện.  
*
*    *
QĐHC là phương tiện thực thi quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân. QĐHC cũng là cầu nối trong mối quan hệ của công dân với Nhà nước. Bởi vậy, hoàn thiện thủ tục truyền đạt QĐHC cũng là cách thiết thực để cải thiện mối quan hệ công dân - công quyền, tăng cường tính minh bạch và chịu trách nhiệm - những đặc trưng nổi bật của nền hành chính hiện đại.
Chúng ta đang xây dựng Luật TTHC, trong đó có nội dung quan trọng là xác lập các nguyên tắc cơ bản nhất của thủ tục ban hành QĐHC, trong đó có thủ tục công khai QĐHC đến người thi hành. Cùng với việc làm này, cần phải bãi bỏ hay sửa đổi ngay những quy định thiếu minh bạch hay thậm chí gây tổn hại đến quyền công dân như: không rõ ràng thời hạn công khai QĐHC, hoặc nguy hiểm hơn, tính thời hiệu, thời hạn khiếu kiện ngay cả khi QĐHC chưa được công khai đến người thi hành và các bên liên quan.
TCNCLP