Tuesday, January 17, 2012

Công khai quyết định hành chính – sự bảo đảm quyền công dân




Một quyết định hành chính không được công khai đến người thi hành và người liên quan sẽ gây ra những hậu quả pháp lý gì? Thực tiễn pháp luật Việt Nam ra sao, và đâu là giải pháp của các nước xung quanh liên quan đến vấn đề này?
Không ở tầm vĩ mô, khái quát như các văn bản lập pháp, cũng không chịu sự điều chỉnh chặt chẽ về thể thức như các văn bản tố tụng, các quyết định hành chính (QĐHC) lại là loại văn bản phổ biến nhất trong đời sống hàng ngày và cũng đụng chạm nhiều nhất đến quyền, nghĩa vụ của công dân. Chưa bàn về tính hợp pháp hay hợp lý của các văn bản này - điều không chỉ đo đếm được về mặt pháp luật mà còn cả kỹ thuật - mà một công đoạn rất nhỏ trong quy trình ban hành QĐHC: công khai quyết định đến người thi hành và người có liên quan, cũng có thể gây nên những ảnh hưởng lớn. Việc “bỏ quên”, không truyền đạt QĐHC đến người có liên quan không phải là hiếm trong thực tế. Xin lấy ví dụ về một bản án đã xét xử tại Tòa án nhân dân (TAND) liên quan đến vấn đề này: “Xuất phát từ việc UBND tỉnh K. ra Quyết định thu hồi đất của gia đình ông B. để giao cho Công ty du lịch M., trong khi ông B. đang khởi kiện Quyết định thu hồi đất, UBND tỉnh K. có Quyết định số 2435/QĐ-UB ngày 1/1/2001 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty du lịch M. Ông B. không nhận được Quyết định số 2435/QĐ-UB mà chỉ được biết việc này khi TAND huyện thông báo cho ông khi giải quyết vụ án hành chính khác do ông B. khởi kiện. Do vậy ông B. đã khởi kiện Quyết định 2435 của UBND tỉnh.
Ngày 20/3/2003, TAND tỉnh K. đã căn cứ vào ngày ban hành Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND tỉnh… để trả lại đơn kiện của ông B. với lý do: đã quá thời hiệu khiếu nại.”1.
1. Rủi ro pháp lý từ việc không công khai quyết định hành chính đến người thi hành và các bên liên quan
- Đối với đối tượng thi hành và các bên liên quan đến quyết định: Có thể thấy rằng, đây là nhóm đối tượng chịu thiệt thòi trực tiếp nhất từ việc không công khai QĐHC. Quyền lợi của người thi hành và các bên liên quan sẽ bị ảnh hưởng. Ví dụ: do không biết về ngày được triệu tập đến dự họp, dự thi, tham gia đấu thầu… nên những thời hạn này trôi qua, người dân mất quyền tham gia vào các sự việc đó. Điển hình trong ví dụ trích dẫn trên, người dân (ông B) có thể bị mất quyền khởi kiện do thời hiệu khởi kiện đã không còn (nếu Tòa án cấp phúc thẩm hay giám đốc thẩm không coi lỗi của cơ quan hành chính (CQHC) là một “trở ngại khách quan” cho phép người dân được kéo dài thời gian khởi kiện). Về mặt pháp luật, điều này là không thể chấp nhận được trong một hệ thống pháp luật hiện đại: nguyên tắc an toàn pháp lý không được đảm bảo, quan hệ giữa nhà nước - công dân thiếu vắng sự minh bạch, công khai.
- Chính CQHC cũng chịu những hậu quả nhất định: vắng người thi hành, một số thủ tục hành chính (TTHC) sẽ không thể thực hiện được, hoặc phải trì hoãn, gây tốn kém thời gian, sức lực và cuối cùng, hiệu quả công việc kém. Mặt khác, nếu tiến hành thủ tục vắng mặt người liên quan, rất khó ra một quyết định đảm bảo tính khách quan, toàn diện hay hợp lý. Hơn nữa từ việc không được biết về QĐHC, mất một số quyền lợi hợp pháp hay vẫn phải gánh chịu các nghĩa vụ phát sinh, tất yếu dẫn đến việc người dân phản đối lại các quyết định này. Từ khả năng này, dễ dẫn tới khiếu nại, khiếu kiện, tăng thêm gánh nặng cho hoạt động hành chính, vốn đã thường xuyên quá tải.
- Toà án hành chính cũng có thêm nhiều rủi ro: đó là thêm gánh nặng vụ việc xét xử nếu giải quyết bởi con đường hành chính không xong. Chưa kể đến những cơ quan, đoàn thể nhất định cũng có thể phải chịu ảnh hưởng nếu người liên quan cầu viện tới họ trong tranh chấp.
Tóm lại, việc không công khai QĐHC có thể dẫn đến những hệ lụy lớn không chỉ cho các bên liên quan mà thậm chí ảnh hưởng đến một phạm vi xã hội nhất định.
2. Pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ công khai các quyết định hành chính đến người thi hành
Cùng với cải cách hành chính, trong những năm gần đây, việc công khai hoá QĐHC dần dần được coi trọng ở nước ta. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (BHVBQPPL) năm 2008 cũng như Luật BHVBQPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) đều quy định rõ trình tự, cách thức và thời hạn để công bố các văn bản quy phạm của trung ương cũng như địa phương. Cụ thể, theo Luật BHVBQPPL 2008: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này” (khoản 2 Điều 78 Luật BHVBQPPL).  
Nhưng đặt trong tương quan với các văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản cá biệt - hay còn gọi là QĐHC - lộ rõ  “thế yếu” trong lĩnh vực này. Nghĩa vụ công khai các QĐHC (cá biệt) chưa được quy định chung trong một văn bản pháp luật nào, mà nếu có thì cũng chỉ rải rác trong từng lĩnh vực khác nhau. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi các QĐHC (quyết định cá biệt) đa dạng vô cùng, cho nên khó có thể có một “bộ luật chung cho các QĐHC cá biệt”. Người ta chỉ có thể quy định những khuôn mẫu chung cho QĐHC về mặt thể thức, chứ không thể là nội dung. Ở nước ta, Dự thảo Luật TTHC - đã nhiều lần được đưa ra bàn bạc - cũng hy vọng nhắm đến một trong những vấn đề này: thủ tục để ban hành QĐHC, trong đó bao gồm cả nội dung công khai QĐHC. Tuy nhiên hiện thời, pháp luật mới chỉ tập trung vào một số nhóm quyết định quan trọng, thường là có nguy cơ xâm hại trực tiếp tới quyền và tự do của công dân, như: quyết định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC), QĐHC trong lĩnh vực đất đai, kỷ luật công chức v.v.. Điều đáng nói là ngay cả trong những trường hợp đã có quy định về công khai QĐHC, nhưng đôi khi nhiều nội dung vẫn còn vắng bóng, như: (i) nhiều lĩnh vực không rõ thời hạn công khai QĐHC đến người thi hành, đơn cử trong một số lĩnh vực mà TTHC đã khá chặt chẽ, vẫn tồn tại các quy định về thời hạn không thực sự rõ ràng; (ii) hoặc không quy định thời hạn công khai QĐHC là bao lâu, ví dụ, đối với việc tạm giữ tang vật phương tiện VPHC - một biện pháp mà tính tổn hại đến quyền sở hữu của công dân là không phải bàn cãi - nhưng thời hạn công khai quyết định này hoàn toàn không rõ. Theo khoản 6 Điều 46 Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung 2007 và 2008): “Việc tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC phải có quyết định bằng văn bản kèm theo biên bản tạm giữ và phải giao cho người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm một bản”, nhưng không hề có quy định pháp luật nào đề cập đến khoảng thời gian để giao quyết định này là bao lâu.
Nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác cũng thiếu vắng các quy định thời hạn. Ví dụ trong việc phê duyệt chủ trương thành lập Trường đại học, Quyết định số 07/2009 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/1/2009 ban hành điều kiện thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể Trường đại học có quy định: “Thời gian hoàn thành việc thẩm định không quá 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ Dự án đầu tư thành lập trường và Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thông báo kết quả thẩm định hồ sơ cho chủ đầu tư Dự án xin thành lập trường”; và “Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định cụ thể về thẩm quyền và quy trình làm việc của Hội đồng thẩm định nêu trên và có trách nhiệm hướng dẫn hoàn thiện hồ sơ trong quá trình xử lý và thông báo về kết quả cho chủ đầu tư dự án biết đối với những hồ sơ không được phê duyệt” (khoản 6 Điều 3 Quyết định số 07/2009 QĐ-TTg). Ở đây, thời hạn để Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo kết quả thẩm định đến chủ đầu tư hoàn toàn không xác định!
Cũng như vậy, khoản 2 Điều 49 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư: “Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, cơ quan tiếp nhận đầu tư thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư biết để sửa đổi, bổ sung hồ sơ” và khoản 7  Điều 49: “Trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận, cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư gửi thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, trong đó nêu rõ lý do”. Việc để ngỏ quy định thời hạn sẽ là rất nguy hiểm, bởi lẽ kèm theo đó là nguy cơ kéo dài TTHC, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp.
Việc quy định nghĩa vụ cho CQHC phải công khai các quyết định của mình đến người có liên quan là một điểm tiến bộ nổi trội trong cải cách TTHC, phản ánh trách nhiệm của công quyền trước công dân. Tuy nhiên, bước tiến này vẫn còn ít nhiều hạn chế bởi thời hạn công khai lại không được ấn định rõ ràng.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật có quy định về thời hạn công khai, nhưng theo kiểu chung chung, không xác định. Ví dụ, tại khoản 4 Điều 71 Pháp lệnh Xử lý VPHC có quy định đối với quyết định đưa vào trường giáo dưỡng: “Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người được đưa vào trường giáo dưỡng, cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó, cơ quan Công an cấp huyện, HĐND cấp huyện và UBND cấp xã nơi người đó cư trú”. Và, “trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với gia đình hoặc người giám hộ đưa người phải chấp hành quyết định vào trường giáo dưỡng”. Vấn đề là thời điểm gửi quyết định đến người thi hành không rõ: gửi ngay - có nghĩa là cùng ngày hay sau đó bao lâu? - bởi trong quá trình ban hành QĐHC này, không có sự tham gia của người phải thi hành. Và liệu quyền công dân, nguyên tắc an toàn pháp lý và các nguyên tắc khác của Nhà nước pháp quyền liệu có được đảm bảo nếu người bị thi hành không nhận được quyết định trong vòng 05 ngày, mà vẫn bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng?
Nhiều văn bản pháp luật cũng không quy định rõ về hậu quả pháp lý của việc không công khai QĐHC. Phần lớn các văn bản không nêu rõ chế tài đối với việc thiếu công khai hay thực hiện không đầy đủ các quy định về công khai QĐHC. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ, ngay bản thân quy định về thủ tục công khai QĐHC đã vốn dĩ không đầy đủ. Do đó, ngay cả khi có các quy định về công khai QĐHC, chế tài cho việc thiếu sót trong thực hiện thủ tục này không hề rõ ràng. Ví dụ, dùng cho toàn bộ các vi phạm pháp luật liên quan đến xử lý VPHC, chỉ có một quy định theo kiểu chung chung: “người có thẩm quyền xử lý VPHC mà sách nhiễu, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 121 Pháp lệnh Xử lý VPHC 2002).
Điều này đặc biệt khó kiểm soát, nhất là trong bối cảnh nước ta - khi mà Tòa án còn phán xét các QĐHC chỉ dựa trên các quy định pháp luật - quyền giải thích pháp luật của Thẩm phán còn hạn chế, nếu không muốn nói là chưa thành hiện thực. Việc quy trách nhiệm cho các vi phạm trong không công khai QĐHC đến người thi hành vì thế càng khó khăn hơn.
 Trong các văn bản pháp luật, việc tính thời hiệu, thời hạn khiếu kiện không dựa trên thời điểm công khai QĐHC đến người thi hành. Trong các cấp độ thiếu công khai QĐHC, theo chúng tôi, đây là cấp độ nguy hiểm nhất: việc tính thời hạn khiếu nại không dựa trên thời điểm công khai QĐHC đến người thi hành thực sự đi trái với nguyên tắc minh bạch, dân chủ, công khai và an toàn pháp lý và không bảo vệ những quyền cơ bản của công dân. Xin dẫn ở đây một vài ví dụ:
Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai, có quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại đối với các QĐHC hay hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai:
“1. Trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có QĐHC trong quản lý đất đai, hoặc cán bộ, công chức thuộc UBND xã, phường, thị trấn, thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường, thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có hành vi hành chính trong khi giải quyết công việc về quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với QĐHC hoặc hành vi hành chính đó, thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
...3. Trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày có quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện ra TAND hoặc khiếu nại đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
 Điều 164 Nghị định 181/2004/NĐ-CP cũng quy định:
“1. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có QĐHC trong quản lý đất đai hoặc cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có hành vi hành chính trong giải quyết công việc về quản lý đất đai mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó, thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
...3. Trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày có quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện tại TAND”.
 Những quy định trên có thể dẫn đến cách hiểu rằng, thời hạn khiếu kiện được tính từ thời điểm người có thẩm quyền trong CQHC ban hành QĐHC. Trở lại ví dụ về vụ kiện ở phần mở đầu, không phải ngẫu nhiên mà một số nơi hay một số lúc, TAND có những phán quyết về thời hạn khởi kiện như vậy - nếu họ dựa trên căn cứ pháp lý như các điều luật vừa trích dẫn trên.
3. Giải pháp của một số nước về việc công khai quyết định hành chính đến người thi hành
Qua xem xét kinh nghiệm của Pháp - một quốc gia phát triển và có ít nhiều ảnh hưởng đến văn hóa và lịch sử pháp luật Việt Nam - và Thái Lan cùng một số quốc gia khác, có hai vấn đề đặt ra: giải quyết như thế nào hậu quả của việc không truyền đạt quyết định và nếu có thể, thì trình tự truyền đạt quyết định nên quy định như thế nào?
3.1. Hậu quả của việc không công khai QĐHC đến người thi hành
Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, có hai khả năng: thứ nhất, một số QĐHC sẽ không phát sinh hiệu lực nếu chưa được công khai đến người thi hành; và thứ hai, các QĐHC đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa được công khai đến đối tượng thi hành luôn có nguy cơ bị khiếu kiện trong bất cứ lúc nào.
-  QĐHC không phát sinh hiệu lực thi hành nếu chưa được công khai đến người thi hành hoặc dựa trên một quy phạm chưa công khai: Theo án lệ của Cộng hòa Pháp, các quyết định mang tính quy phạm sẽ không phát sinh hiệu lực pháp lý nếu chưa được truyền đạt đến người thi hành (C.E 16/4/1948, Min. de la Production Industrielle ; C.E., 25/11/1949, Caise d’Epargne Ordinaire d’Etampes). Cũng như vậy, không được phép trừng phạt hành vi vi phạm một quy định được nêu trong một văn bản chưa được công bố (Cass. Crim., 27/11/1941). Các thẩm phán hành chính Pháp nhiều lần tuyên bố nguyên tắc: CQHC nếu ban hành QĐHC dựa trên một văn bản chưa được công bố thì quyết định này chưa phát sinh hiệu lực chừng nào văn bản quy phạm kia chưa được công khai (C.E., Syn. Nat. des Chemins de Fer de Franc et des Colonies). Thậm chí nguyên tắc này được quy định rõ trong một số văn bản pháp luật: Luật Tổ chức chính quyền xã có quy định tại Điều 96: “Các văn bản của xã trưởng chỉ bắt buộc thi hành sau khi đã được truyền đạt đến các bên liên quan”.
Tuy nhiên, nguyên tắc này có một ngoại lệ: khá nhiều trường hợp, QĐHC (cá biệt) có thể phát sinh hiệu lực pháp lý ngay cả khi chưa kịp công khai đến người thi hành. Lý do là thời điểm có hiệu lực pháp lý của quyết định không phụ thuộc vào việc truyền đạt đến người thi hành và các bên liên quan. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, hoàn toàn có khả năng là thời điểm có hiệu lực của quyết định hoặc được quy định trong luật; hoặc được xác định ngay trong chính quyết định đó. Mà cả hai điều này đều không có liên quan tới việc người thi hành có nhận được quyết định hay không. Bởi vì về sâu xa, QĐHC khác với hợp đồng: tính song phương của hợp đồng cần có sự thoả thuận cả đôi bên, còn QĐHC có tính đơn phương - nghĩa là chính quyền (đại diện cho lợi ích chung) - có quyền tự quyết định, và vì vậy QĐHC sẽ có hiệu lực thi hành không phụ thuộc vào ý chí bên kia.
Cũng như vậy, pháp luật nước ta cho phép trong nhiều trường hợp, QĐHC phát sinh hiệu lực thi hành một cách đơn phương - không dựa vào thời điểm công khai đến người thi hành. Ví dụ tại khoản 4 Điều 56 Pháp lệnh Xử lý VPHC quy định: “Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác”. Vậy cơ chế nào đảm bảo quyền công dân trong trường hợp này? Câu trả lời nằm trong một chế định pháp luật: cách tính thời hiệu, thời hạn khiếu nại và khởi kiện hành chính. Cụ thể là thời hiệu, thời hạn khiếu kiện chỉ được tính từ ngày mà người thi hành hoặc người liên quan được biết về QĐHC đó.
- Việc không công khai QĐHC đến người thi hành làm kéo dài thời hiệu, thời hạn khiếu kiện hành chính: Khác với thời hiệu, thời hạn khiếu kiện thông thường (vốn giới hạn trong một khoảng thời gian xác định như 1 tháng, 2 tháng....) thì trong trường hợp này, thời hiệu, thời hạn khiếu kiện chỉ bắt đầu tính từ khi người liên quan thực sự biết được quyết định. Luật của Đức quy định: nếu khiếm khuyết trong việc thông báo (thông báo chậm, không rõ ràng), thì thời hiệu khiếu nại QĐHC là 01 năm kể từ ngày công bố quyết định (trong khi thời hạn bình thường chỉ là 01 tháng). Và trong trường hợp do lỗi của CQHC không hề thông báo đến người liên quan, thì thời hiệu khởi kiện là vô cùng: bất cứ khi nào người liên quan cũng có quyền khiếu nại2.
Có thể thấy, tuy nguyên tắc an toàn pháp lý bị vi phạm ít nhiều, nhưng bù lại, quyền lợi của người liên quan được bảo đảm, và quan trọng hơn, trách nhiệm của hành chính bị truy đuổi đến tận cùng.
Tương tự như vậy trong luật của Pháp, nếu một QĐHC không được thông báo hay thông báo không hợp lệ đến người liên quan, thời hiệu khiếu kiện chống lại quyết định đó là không xác định, bất cứ lúc nào người liên quan cũng có quyền khởi kiện. Theo án lệ Les Hortensias của Hội đồng Nhà nước Pháp (Conseil d’Etat), một xã trưởng không thể vin lý do là đã quá thời hiệu khởi kiện để không xem xét yêu cầu của đương sự chống lại quyết định của ông ta. Thời hiệu không đặt ra trong trường hợp này, bởi lẽ, quyết định của xã trưởng đã không được thông báo đúng thể thức: niêm yết ở trụ sở xã và trên thửa đất xây dựng có liên quan3.
Riêng với quyết định ngầm (im lặng) thì không đặt ra thời hiệu, bởi với loại quyết định này không có thông báo, nên đồng thời đi kèm với rủi ro: có thể bị kiện và bị huỷ bỏ bất kỳ thời điểm nào4. Cũng có thể coi đây là một chế tài áp dụng cho việc không thông báo của CQHC vậy.
 Đi xa hơn nữa trong việc bảo vệ quyền công dân, án lệ Pháp đã đưa ra một số quy tắc: nếu một quyết định có lợi cho người liên quan thì khắc có hiệu lực thi hành mà không liên quan đến việc người liên quan có biết về quyết định đó hay chưa (Án lệ Deville, Conseil d’’Etat 10/1/1958); ngược lại, quyết định không có lợi cho người liên quan thì chỉ có thể có hiệu lực thi hành nếu như đã được thông báo (Án lệ Bà Lefranc, Conseil d’Etat 28/11/1952)5.
Quy tắc về thời hiệu nói trên tạo ra một sự “cân bằng” nhất định trong mối quan hệ giữa công quyền - công dân: chừng nào mà QĐHC chưa được công khai bởi công quyền thì chừng đó còn tồn tại rủi ro QĐHC đó có thể bị khởi kiện và tuyên hủy. Nguy cơ bị kiện sẽ đeo đẳng cùng với QĐHC không đảm bảo thủ tục công khai đó. Đây chính là một “chế tài” cho QĐHC thiếu công khai, và cũng là một đảm bảo cho quyền công dân. Với nguy cơ từ rủi ro đó, chắc sẽ tạo nên áp lực để CQHC thực hiện nghĩa vụ công khai các QĐHC của mình.
 Tuy nhiên, tất cả các giải pháp trên đều chỉ là cứu vãn tình thế. Điều mong muốn nhất là không xảy ra những “sự cố” trong giao tiếp giữa hành chính và người dân. Muốn vậy, cần có sự công khai rành rọt về QĐHC. 
3.2. Truyền đạt quyết định đến người thi hành 
- Theo luật của Vương quốc Thái Lan (Đạo luật năm 1996 về việc công bố các QĐHC không mang tính quy phạm), thông báo có thể trực tiếp bằng miệng hay văn bản. Trong trường hợp bằng văn bản thì có thể thực hiện bằng thư bảo đảm, thời hạn coi như người liên quan đã nhận quyết định ở trong nước là 07 ngày, ở nước ngoài là 15 ngày. Tuy nhiên, trong trường hợp liên quan đến hơn 50 người thì có thể thông báo bằng cách niêm yết tại trụ sở CQHC nơi đương sự cư trú, với điều kiện là CQHC phải thông báo ngay từ đầu cho các đương sự biết về việc niêm yết này. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày niêm yết, coi như là các đương sự đã được biết về QĐHC. Ngoài ra, có thể niêm yết khi CQHC không biết đích xác đối tượng cần thông báo, hoặc có biết đối tượng nhưng không nắm được nơi cư trú. Hơn nữa, trong trường hợp khẩn cấp có thể thông báo bằng việc gửi fax.
- Thông báo đương nhiên là gửi cho bản thân người có liên quan trong QĐHC. Đối với một số trường hợp đặc biệt, án lệ Pháp cho phép những ngoại lệ, như có thể gửi cho người gác cổng khu nhà đương sự ở hoặc đóng trụ sở (Án lệ 18/5/1945 Công ty hỗ trợ quản lý và phát triển, Hội đồng Nhà nước Pháp); nhưng nếu gửi cho chị của đương sự thì lại coi là không hợp lệ (án lệ 9/5/1962, xã La Saule). Trường hợp đương sự cố tình không nhận quyết định (không nhận thư bảo đảm; không ký vào giấy giao nhận tài liệu; không đi ra bưu điện lấy QĐHC theo giấy triệu tập...) thì chủ thể ra QĐHC không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào khi thi hành cũng như thời hiệu khiếu nại.
Theo luật Thái Lan, thông báo phải gửi cho đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Trường hợp đương sự từ chối hoặc vắng mặt, đạo luật 1976 cho phép gửi thông báo đến một người đã thành niên cùng ở chung nhà với đương sự; hoặc chủ nơi đương sự làm việc. Trong trường hợp vẫn từ chối thì có thể niêm yết ngay tại các địa điểm nói trên6.
- Việc thông báo phải hoàn chỉnh, nghĩa là phải làm cho đương sự hiểu nội dung QĐHC. Cách tốt nhất là cần gửi toàn văn QĐHC đến người liên quan. Tuy nhiên, án lệ hành chính Pháp cũng cho phép một vài ngoại lệ: việc đọc QĐHC kèm theo ký xác nhận đã nghe của đương sự cũng có thể coi là đã hoàn thành thủ tục thông báo (C.E., 28/3/1950, Resset, 200); hoặc có thể chỉ cần trích dẫn QĐHC cũng đã đủ hiểu nội dung, bản chất QĐHC. Nếu thông báo không đầy đủ thì hậu quả có thể là sẽ kéo dài thời hiệu khởi kiện.  
*
*    *
QĐHC là phương tiện thực thi quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân. QĐHC cũng là cầu nối trong mối quan hệ của công dân với Nhà nước. Bởi vậy, hoàn thiện thủ tục truyền đạt QĐHC cũng là cách thiết thực để cải thiện mối quan hệ công dân - công quyền, tăng cường tính minh bạch và chịu trách nhiệm - những đặc trưng nổi bật của nền hành chính hiện đại.
Chúng ta đang xây dựng Luật TTHC, trong đó có nội dung quan trọng là xác lập các nguyên tắc cơ bản nhất của thủ tục ban hành QĐHC, trong đó có thủ tục công khai QĐHC đến người thi hành. Cùng với việc làm này, cần phải bãi bỏ hay sửa đổi ngay những quy định thiếu minh bạch hay thậm chí gây tổn hại đến quyền công dân như: không rõ ràng thời hạn công khai QĐHC, hoặc nguy hiểm hơn, tính thời hiệu, thời hạn khiếu kiện ngay cả khi QĐHC chưa được công khai đến người thi hành và các bên liên quan.
TCNCLP

No comments:

Post a Comment