Thursday, January 19, 2012

Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam



Hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền có người bào chữa trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam.1 Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc thông qua người bào chữa (NBC) - bao gồm luật sư, bào chữa viên nhân dân (BCVND) hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy, vai trò của NBC khi tham gia tố tụng chưa được tôn trọng và quyền có NBC chưa được bảo bảm một cách toàn diện, thậm chí bị vi phạm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này bắt nguồn từ những quy định thiếu nhất quán và không mang tính khả thi. Vì vậy, cần thiết phải sớm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS (BLTTHS) về quyền có NBC. Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách tư pháp. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách đó là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng hơn nữa quyền của NBC và của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.2 Bài viết đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện BLTTHS về bảo đảm quyền có NBC, nâng cao hiệu quả trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
1. Những kiến nghị mang tính định hướng
1.1. Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tố tụng hình sự
Mục đích cuối cùng của TTHS là đảm bảo tính công bằng của pháp luật và hơn hết là đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, tranh tụng công bằng cần phải được nhìn nhận là một yếu tố đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng. Đây là tiền đề cho việc xác định đúng đắn vai trò của NBC cũng như đảm bảo tốt hơn quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Với cách tiếp cận đó, đảm bảo tranh tụng công bằng trong hoạt động TTHS là vấn đề mang tính khách quan. Xét về bản chất, tranh tụng luôn gắn liền với hoạt động tài phán và chỉ có thể được thực hiện trọn vẹn ở phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các bên.3 Tuy nhiên, sẽ là không toàn diện nếu chỉ giới hạn tranh tụng trong phạm vi của phiên tòa hoặc đồng nhất tranh tụng với tranh luận tại phiên tòa; hay chỉ coi các quy định về trình tự, thủ tục xét xử vụ án tại phiên tòa mới là các quy định về tranh tụng.4 Một bản án công bằng phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ chứng cứ của các bên trong các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án mà không chỉ ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Do đó, cần phải thay đổi quan điểm cho rằng hoạt động tranh tụng là hoạt động chỉ diễn ra ở phiên tòa xét xử. Thực chất, phiên tòa tranh tụng là thời điểm mấu chốt để Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng đối với bị cáo. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự đối tụng công bằng trong các giai đoạn tố tụng tiền xét xử (hoạt động điều tra) sẽ khó đảm bảo tính khách quan và công bằng của bản án. Do đó, mở rộng phạm vi tranh tụng trong giai đoạn điều tra cũng chính là mở rộng phạm vi bảo đảm quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sự hiện diện của NBC trong quá trình điều tra vụ án sẽ góp phần đảm bảo tính khách quan và công bằng cho phán quyết của Tòa án.
Bên cạnh đó, để tranh tụng đạt kết quả, phải ghi nhận “tranh tụng” là phương pháp chủ yếu trong suốt quá trình TTHS mà không chỉ ở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Cần phải hiểu tranh tụng là sự đối tụng công bằng giữa các bên đối trọng nhau về quyền lợi. Muốn đạt được tranh tụng, đòi hỏi các bên phải có những cơ hội ngang bằng nhau về quyền thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ, mà không chỉ đơn thuần là những kết quả thu được từ hoạt động thẩm vấn.
Chúng tôi cho rằng, mở rộng tranh tụng cần thiết phải đi đôi với ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS5. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ sở pháp lý để các bên trong TTHS tiến hành các hoạt động bình đẳng và tuân thủ pháp luật. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng phải dựa trên một số tiêu chí: (i) ghi nhận đầy đủ nội dung của nguyên tắc tranh tụng nhằm phân định rõ các chức năng cơ bản trong TTHS là: buộc tội, bào chữa, xét xử; (ii) quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án phù hợp với chức năng tố tụng của chủ thể đó theo quy định của pháp luật; (iii) quy định đầy đủ các điều kiện bảo đảm cần thiết để các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào chữa bình đẳng với nhau trong tranh tụng.
Từ phương diện bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS, việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng sẽ là cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó trên thực tế. Với quy định hiện hành, pháp luật dường như đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh vụ án lên Hội đồng xét xử, đòi hỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không cần thiết trong tranh tụng, dẫn đến tình trạng Tòa án “lấn sân” các chủ thể khác trong việc thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, hạn chế tính chủ động của các chủ thể đó. Như một tất yếu, chức năng xét xử của Tòa án cũng bị hạn chế. Do đó, ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc tố tụng cơ bản sẽ cân bằng lại vai trò của các bên trước Tòa án, khẳng định hơn nữa vai trò của NBC, đồng thời sẽ là cơ chế bảo đảm hiệu quả nhất quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể được bảo đảm nếu cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT, người THTT là những chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế, không phải tất cả những người THTT đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người THTT phải am hiểu thấu đáo những quy định của pháp luật về quyền có NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền bào chữa, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương III Khoá VIII của Ban Chấp hành trung ương Đảng nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan THTT đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ THTT vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận thức của đội ngũ THTT, phải tập trung một số vấn đề sau:
Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người THTT về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn. Sự có mặt của NBC trong vụ án không gây khó khăn cho các cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ chứ không phải là “đối thủ” của các cơ quan THTT. Vì vậy, người THTT cần phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những người THTT.
1.3. Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân
Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Do đó, cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của NBC là không cần thiết và tốn kém. Nhận thức không đúng về vai trò và vị trí của NBC chính là rào cản lớn làm cho sự tham gia của NBC trở nên khó khăn, trong khi bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa có hiệu quả. Việc NBC tham gia tố tụng để bảo vệ cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ, người đại diện hợp pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc thay đổi nhận thức về vai trò của NBC là cách tốt nhất để trang bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những phương tiện, biện pháp giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ phía những người THTT, cơ quan THTT nhằm thực hiện quyền bào chữa của mình.
Đối với NBC, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề là một việc làm cần thiết. NBC phải nhận thức và nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. NBC phải thường xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có hiệu quả.

2.  Những kiến nghị cụ thể
(i) Hiện nay, với quy định hiện hành,6 trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT, bao gồm cả Tòa án. Quy định này cho thấy Tòa án sẽ đồng thời thực hiện hai chức năng, vừa chứng minh tội phạm, vừa xét xử. Cần phải thống nhất quan điểm Tòa án cũng tham gia hoạt động chứng minh bảo vệ công bằng pháp luật nhưng thông qua chức năng xét xử. Quy định như trên vô hình chung đã ràng buộc Tòa án phải làm thay chức năng truy tố buộc tội của Viện Kiểm sát. Nếu chức năng tố tụng không được phân định rõ ràng, nguyên tắc tranh tụng sẽ khó được đảm bảo trên thực tế. Để phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là nâng cao tính tranh tụng của phiên tòa xét xử vụ án hình sự, nên sửa đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng: “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát; Tòa án thực hiện chức năng xét xử; bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội”.
(ii) Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các trường hợp chỉ định NBC có 3 quyền: quyền lựa chọn, quyền yêu cầu thay đổi và quyền từ chối NBC. Tuy nhiên, việc quy định các quyền này chưa rõ ràng và hợp lý, gây khăn trong việc áp dụng pháp luật. Do đó, nên sửa đổi, bổ sung Điều 57 BLTTHS về 3 nội dung:
Thứ nhất, liên quan đến quyền lựa chọn NBC.7 Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định về quyền lựa chọn NBC theo hướng phân định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị can, bị cáo tự thuê với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định.
Với trường hợp NBC do người người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thuê: Quyền lựa chọn NBC cần được quy định theo hướng phân định rõ ràng giữa quyền lựa chọn NBC của bị can, bị cáo là người đã thành niên với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã thành niên, họ có quyền lựa chọn và thay đổi NBC cho mình. Trong trường hợp họ không thể trực tiếp mời (thuê) NBC thì người đại diện hợp pháp có thể mời NBC với sự đồng ý của họ.
Đối với trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền lựa chọn NBC. Nếu có sự không thống nhất về việc lựa chọn NBC giữa người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ, thì quyền quyết định cuối cùng sẽ do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quyết định.
Với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định: Để bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có ngay NBC, cần bổ sung khoản 2 Điều 57 BLTTHS về quyền lựa chọn NBC theo hướng: Trong các trường hợp chỉ định NBC, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền lựa chọn NBC dựa trên danh sách các luật sư mà cơ quan THTT cung cấp. Cơ quan THTT có nghĩa vụ tập hợp và cung cấp ngay cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo danh sách các luật sư có đủ năng lực từ các đoàn luật sư.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến quyền từ chối NBC. Sự có mặt của NBC trong trường hợp này là thực sự cần thiết không chỉ đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn đảm bảo tính tranh tụng trong quá trình chứng minh tội phạm. Người chưa thành niên, người có khiếm khuyết về tâm thần hoặc thể chất là đối tượng đặc biệt, hạn chế về nhận thức nên cần thiết phải có NBC trong quá trình TTHS. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, quyền từ chối NBC nên được khuyến cáo hạn chế áp dụng trong những trường hợp có nghi vấn về khả năng tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ví dụ như trường hợp họ là người chưa thành niên hoặc người bị hạn chế về năng lực tâm thần.8 Trong khi một số nước khác không quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền từ chối NBC trong các trường hợp bắt buộc chỉ định NBC.9 Vấn đề bảo đảm quyền trước hết phải xuất phát từ mong muốn của người người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (khi họ hoàn toàn sáng suốt và ý thức được việc từ chối quyền mà pháp luật trao). Do đó, quyền từ chối NBC vẫn cần thiết phải được ghi nhận. Tuy nhiên, khía cạnh đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước và tính công bằng của pháp luật cũng cần phải được tôn trọng. Chính vì vậy, trong những trường hợp nếu thấy rằng quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bị đe dọa vì thiếu vắng sự tham gia của NBC, Nhà nước cần phải cân nhắc, chấp nhận hay không việc từ chối của họ. Quy định như hiện nay tại Điều 57 BLTTHS Việt Nam là chưa hợp lý.10 Do đó, nên xây dựng một điều luật về quyền từ chối NBC theo hướng người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền từ chối quyền có NBC (trừ trường hợp là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất). Đồng thời, quy định các cơ quan THTT có nghĩa vụ giải thích những hậu quả của việc từ chối quyền có NBC; việc từ chối NBC phải đảm bảo trong điều kiện người từ chối minh mẫn và tự nguyện; việc từ chối phải lập thành văn bản có chữ ký của người từ chối và xác nhận của cơ quan THTT.
Thứ ba, nên quy định về việc cử NBC dự bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo  trong trường hợp họ gặp khó khăn về việc tự bào chữa do trước đó đã từ chối NBC. Đây là quy định được nhiều nước áp dụng. Quy định mở rộng này sẽ giải quyết được thực trạng khi mà bị cáo đã từ chối NBC ở giai đoại điều tra, nhưng sau đó lại đề nghị được chỉ định NBC tại phiên tòa. Sự tham gia của NBC sẽ đảm bảo tính công bằng trong TTHS. Theo đó, các cơ quan THTT chỉ cần nắm danh sách luật sư của các đoàn luật sư cũng như của các trung tâm trợ giúp pháp lý để dự trù việc cung cấp kịp thời NBC dự bị cho người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tất cả các giai đoạn tố tụng.
Thứ tư, cần mở rộng phạm vi khoản 2 Điều 57 BLTTHS về đối tượng được chỉ định NBC. Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ được chỉ định NBC trong hai trường hợp: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự; b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Quy định này cho thấy phạm vi đảm bảo quyền có NBC là quá hẹp so với quy định của nhiều nước trên thế giới.11 Theo đó, với những người bị cáo buộc về các tội phạm nghiêm trọng, cần thiết phải có cơ chế bảo đảm cho họ có quyền có NBC. Chính vì vậy, nên bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS theo hướng quy định thêm các trường hợp được bào chữa chỉ định, bao gồm những tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự (hiện nay chỉ áp dụng đối với mức tử hình).
(iii) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 58 theo hướng cho phép NBC tham gia từ khi khởi tố bị can đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Sự tham gia của NBC, đặc biệt là của luật sư vào các giai đoạn tố tụng là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quy định như Điều 58 BLTTHS,12 đã hạn chế sự tham gia của NBC trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia; hạn chế quyền của NBC thu thập chứng cứ đối với tài liệu thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác… Nhiệm vụ đảm bảo bí mật an ninh quốc gia là nhiệm vụ tối quan trọng và đòi hỏi sự bảo mật. Tuy nhiên với ý kiến cho rằng sự tham gia của NBC ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tố tụng sẽ gây khó khăn cho cơ quan THTT trong việc điều tra vụ án, không bảo đảm bí mật điều tra, làm lộ bí mật nhà nước, bí mật công tác… là không có sơ sở và không thuyết phục. Hơn thế nữa, việc quy định hạn chế trên là không phù hợp với nguyên tắc “Bảo đảm bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”.13Cùng là bị can, bị cáo nhưng các chủ thể trong những trường hợp trên lại không được hưởng trọn vẹn quyền bào chữa theo quy định của pháp luật. Hơn thế nữa, những bị can, bị cáo trong trường hợp này rất cần thiết sự giúp đỡ của NBC bởi tính chất phức tạp của loại tội xâm phạm an ninh quốc gia. Sự tham gia của NBC ngay từ đầu đối với tất cả các vụ án sẽ là điều kiện không những đảm bảo cho việc điều tra đầy đủ, toàn diện và khách quan mà còn giúp đỡ cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa có hiệu quả. Hơn ai hết, khi tham gia vào các vụ án trên, NBC phải hiểu và ý thức được tầm quan trọng của vụ án cũng như xác định trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm bí mật điều tra, bí mật nhà nước. Việc tiết lộ bí mật điều tra, bí mật nhà nước, bí mật công tác… đã có các chế tài pháp luật hình sự khác đủ để điều chỉnh và xử lý NBC nếu họ vi phạm. Vì vậy, đối với quy định tại Điều 58 BLTTHS cần thiết nên sửa đổi theo hướng mở rộng hơn, cho phép NBC có quyền tham gia từ khi khởi tố bị can đối với cả tội xâm phạm an ninh quốc gia.
(iv) Sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLTTHS quy định về sự có mặt và sự tham gia tranh tụng của NBC tại phiên toà. Việc cho phép Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa nếu NBC vắng mặt như hiện nay vô hình chung sẽ tạo điều kiện cho NBC được quyền thiếu trách nhiệm trong việc bào chữa.14 Mặt khác, việc Tòa án tiến hành phiên tòa thiếu sự có mặt của NBC sẽ khiến cho việc đánh giá chứng cứ không khách quan, vì bản án của Tòa án đưa ra phải là kết quả của việc xem xét đầy đủ và khách quan các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và cả những chứng cứ khác phát sinh trong quá trình xét xử tại phiên tòa. Chính vì vậy, nên quy định sự có mặt của NBC là bắt buộc. Mọi trường hợp vắng mặt NBC, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
(v) Các trình tự tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải được tiến hành trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng - một đặc tính của tố tụng tranh tụng (adversary legal system). Theo đó, phiên tòa xét xử phải được quy định là một phiên tòa tranh tụng (adversarial trial). Thủ tục xét hỏi tại phiên toà (từ Điều 206 đến Điều 216 BLTTHS) phải được sửa đổi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh tụng giữa các bên, giữa bên bào chữa và bên buộc tội, mà không chỉ đơn thuần là xét hỏi. Các bên tham gia phiên tòa thực hiện quyền đưa ra các chứng cứ và tiến hành hoạt động đối chứng. Thẩm phán lắng nghe các bên trình bày chứng cứ và đóng vai trò là người trọng tài, điều khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên diễn ra tại phiên tòa, mà không phải là người thẩm tra. Trách nhiệm của thẩm phán là xem xét các chứng cứ và tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết. Bản án của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng và tuân thủ các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Các kết luận của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát về hành vi phạm tội sẽ là cơ sở pháp lý ban đầu để Tòa án xem xét và cân nhắc khi ra bản án. Điều này, một mặt sẽ giảm bớt gánh nặng của Tòa án trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, mặt khác, đề cao vai trò tranh tụng của các bên, đồng thời nâng cao tính khách quan cho bản án.
(vi) Nên bổ sung một điều luật quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được im lặng.15 Đồng thời quy định điều tra viên có nghĩa vụ phải thông báo và giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về quyền được im lặng cho đến khi có mặt NBC do họ mời hoặc do cơ quan THTT chỉ định. Điều tra viên chỉ được tiến hành lấy lời khai người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trừ khi họ từ chối quyền có NBC.
(vii) Sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NBC khi tham gia vụ án:
- Cần quy định lại Điều 58, khoản 2(b) BLTTHS theo hướng cơ quan THTT có nghĩa vụ phải thông báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can. NBC có quyền được thông báo mà không chỉ là quyền đề nghị được thông báo như quy định hiện hành.
- Cần quy định nghĩa vụ của cơ quan THTT trong việc tiếp nhận chứng cứ do NBC cung cấp và trách nhiệm của cơ quan THTT phải hỗ trợ NBC trong việc liên hệ với các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tạo điều kiện thuận lợi để thu thập chứng cứ. Đồng thời quy định NBC có quyền được nhận thông báo về việc trưng cầu giám định và kết quả giám định.
- Bổ sung quy định về quyền của NBC được gặp gỡ và trao đổi với thân chủ đang bị tạm giữ, tạm giam. Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998, NBC chỉ được phép trao đổi với thân chủ không quá 1 tiếng đồng hồ cho một lần gặp. Quy định này chưa hợp lý vì không đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động bào chữa. Thời gian 1 tiếng đồng hồ là quá ít trong khi việc gặp gỡ thân chủ đang bị tạm giam luôn gặp khó khăn bởi cơ quan quản lý trại tạm giam.16 Theo đó, cần sửa đổi lại quy định tại điểm e khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo hướng NBC không bị giới hạn số lần và thời gian tiếp xúc với thân chủ của mình. Việc trao đổi có thể trực tiếp hoặc qua thư từ, trừ những trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam vi phạm những tội xâm phạm an ninh quốc gia thì việc trao đổi bằng thư từ sẽ không được phép.
- Nên bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC. Hiện nay, theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS, NBC muốn tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án cấp giấy chứng nhận NBC. Các cơ quan này cũng có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận NBC nhưng phải nêu rõ lí do. Quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC xuất phát từ việc ngoài luật sư, còn có những người khác (BCVND hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được tham gia vụ án như NBC để giúp đỡ họ. Những người này không phải là luật sư chuyên nghiệp và không bắt buộc phải là người có đầy đủ kiến thức về pháp luật. Do đó, họ cần thiết phải được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trước khi tham gia là NBC trong vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, khi những người này tham gia bào chữa, họ đương nhiên phải xuất trình văn bản yêu cầu NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo kèm them giấy giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nếu là BCVND. Trên cơ sở đó, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án phải xem xét và quyết định có chấp nhận hay không chấp nhận cấp giấy chứng nhận NBC. Hiện tại, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành mẫu Giấy chứng nhận NBC và mẫu Quyết định thu hồi giấy chứng nhận NBC trong trường hợp NBC vi phạm các quy định của BLTTHS về hoạt động bào chữa. Tuy nhiên, đối với Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát, vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Đây là một thiếu sót cần phải sớm được bổ sung và hoàn thiện. Việc quy định thiếu đồng bộ về thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa như hiện nay đã dẫn đến tình trạng gây khó khăn từ phía cơ quan THTT có thẩm quyền, mà thông thường là việc chậm cấp giấy chứng nhận NBC17… Điều này gây cản trở và ảnh hưởng đến hoạt động của NBC.
Tại nhiều nước trên thế giới, luật sư chỉ cần xuất trình thẻ luật sư khi tham gia bào chữa mà không phải làm bất cứ một thủ tục hành chính nào trước cơ quan THTT. Thẻ luật sư là căn cứ pháp lý để luật sư được quyền tham gia tố tụng với tư cách là NBC. Đối chiếu với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC đã làm phức tạp hơn các thủ tục hành chính, đồng thời làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong hoạt động bào chữa của NBC, thậm chí gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (khi cơ quan THTT gây khó dễ trong việc cấp giấy chứng nhận NBC). Pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho NBC để họ tham gia vào vụ án bảo vệ cho thân chủ một cách hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải thiết lập một kênh thông tin giữa các cơ quan THTT với các đoàn luật sư, cũng như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tình trạng của luật sư và BCVND. Điều này sẽ cho phép loại bỏ những trường hợp NBC không đủ điều kiện tham gia bào chữa. Ngoài ra, cũng nên bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC; thay vào đó, NBC chỉ cần phải trình cho cơ quan THTT những loại giấy tờ cần thiết liên quan đến việc bào chữa như: văn bản yêu cầu NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (trong trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định, không cần phải có văn bản này); thẻ luật sư (nếu là luật sư); giấy giới thiệu của văn phòng luật sư hoặc của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (nếu là BCVND).
- Phát triển đội ngũ NBC nhằm đáp ứng tốt nhu cầu được trợ giúp pháp lý.
Đào tạo đội ngũ luật sư: Luật sư là lực lượng nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý nói chung và tham gia bào chữa trong vụ án hình sự nói riêng. Tuy nhiên, số luật sư hiện nay trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu được tư vấn pháp lý và bào chữa18. Trước thực trạng trên, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu của Chiến lược là đến năm 2020, phát triển số lượng khoảng từ 18.000 - 20.000 luật sư, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Hy vọng với định hướng phát triển này sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng các dịch vụ tư vấn pháp lý. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ về đội ngũ luật sư, đó là: (i) mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề luật sư đối với viên chức nhà nước đang là giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại học. Giảng viên luật tại các trường đại học là những người có nền tảng kiến thức pháp luật vững chắc và phù hợp với nghề luật sư. Việc tham gia của đội ngũ giảng viên luật trong hoạt động nghề nghiệp luật sư không chỉ đáp ứng về mặt chất lượng mà còn bổ sung hiệu quả về số lượng luật sư đang thiếu hụt. Tuy nhiên, kể từ khi Luật Luật sư được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, những giảng viên luật là viên chức nhà nước đã có chứng chỉ và đang hành nghề luật sư buộc phải lựa chọn hoặc từ bỏ viên chức nhà nước để tiếp tục hành nghề hoặc ngược lại.19 Quy định này được cho là phù hợp với Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003.20 Tuy nhiên hiện tại, Luật Viên chức đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào ngày 1/1/2012 là cơ sở pháp lý cho phép viên chức nhà nước được tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp phù hợp với chuyên môn và không trái pháp luật.21 Vì vậy, cần sớm bổ sung quy định của Luật Luật sư theo hướng mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề đối với giảng viên dạy luật là viên chức tại các trường đại học công lập; (ii) mở rộng hợp tác đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề; tăng cường hợp tác trao đổi với các tổ chức luật sư nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm; nâng cao mức thù lao chi phí đối với luật sư chỉ định. Hiện nay, rất nhiều ý kiến cho rằng, mức thù lao được trả cho luật sư là 120.000 đồng/1ngày làm việc của luật sư đối với những vụ án do cơ quan THTT yêu cầu không hợp lý.22 Để phù hợp với tình hình lạm phát kinh tế và đáp ứng tốt chất lượng bào chữa, Nhà nước cần có chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả cho luật sư chỉ định và không nên đưa ra một mức thù lao áp đặt.
Phát triển trợ giúp viên pháp lý: Mặc dù công tác đào tạo đội ngũ luật sư đã đáp ứng phần nào nhu cầu của người dân về hỗ trợ pháp lý, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, việc đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo mời luật sư tham gia tố tụng là rất khó. Vì vậy, phát triển đội ngũ trợ giúp viên pháp lý ở các địa phương sẽ là giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường hoạt động bào chữa.
Hoàn thiện quy định về Bào chữa viên nhân dân (BCVND): Chức danh BCVND ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước.23 Tuy nhiên, từ năm 1989 đến nay, khi các đoàn luật sư được khôi phục lại thì hoạt động BCVND hầu như chấm dứt, chức danh BCVND chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Hiện tại không có văn bản pháp quy nào quy định về thành lập, tổ chức, quản lý, phát triển đội ngũ này. Do đó, cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống nhất về BCVND. Bên cạnh đó, ban hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của BCVND theo hướng giao cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.
(1) Điều 11 BLTTHS 2003.
(2) Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 22/2/2002 và Nghị quyết 49 NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
(3) John H. Langbein, The Origins of the Adversary Trial, Oxford, 2003, tr.23.
(4) Trần Văn Độ, Bản chất tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4/2004.
(5) Hiện tại, BLTTHS năm 2003 dành hẳn một chương (Chương 2) quy định về các nguyên tắc cơ bản (tuy nhiên chưa quy định nguyên tắc tranh tụng).
(6) Điều 10 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.”
(7) Hiện tại, theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền lựa chọn NBC. Tuy nhiên, cả BLTTHS và văn bản trên đều không phân định rõ ràng quyền lựa chọn NBC này là đối với trường hợp NBC chỉ định hay NBC được  thuê.
(8) Xem ví dụ án lệ Johnson v. Zerbst 304 U.S., đoạn 464-65 (1938) của Tòa án tối cao Mỹ.
(9) Xem ví dụ Điều 141 BLTTHS Đức.
(10) Theo quy định hiện hành, người bị tạm giữ, bị ban, bị cáo có quyền từ chối NBC do họ mời hoặc do cơ quan THTT chỉ định.
(11) Ví dụ, ở Mỹ quyền được chỉ định NBC được áp dụng cho những trường hợp bị cáo buộc về hình phạt tù (xem án lệ: Bett v. Brady, 316 U.S. 455 (1942), Gideon v. Wainwright 372 U.S. 335 (1963), Argersinger v. Hamlin, 407, U.S. 25 (1972)). Ở Đức, việc chỉ định NBC được tiến hành nếu người bị buộc tội bị truy tố về một tội phạm nghiêm trọng hoặc kết quả của việc truy tố là cấm hành nghề (Điều 140 BLTTHS).
(12) Khoản 1 Điều 58 BLTTHS quy định: “…Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để NBC  tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
(13) Điều 5 BLTTHS.
(14) Điều 190 BLTTHS 2003 quy định: “NBC có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. NBC có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu NBC vắng mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử”.
(15) Quyền im lặng là quyền pháp lý cơ bản của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền này được ghi nhận rất sớm ở Anh vào thế kỷ 16. Nền tảng lý luận của quyền im lặng xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng giữa quyền lực nhà nước và quyền công dân. Theo đó, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bắt buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc không buộc phải nhận mình phạm tội. Nhà nước có nghĩa vụ phải tìm kiếm chứng cứ để chứng minh những cáo buộc của mình. (Xem: Ronald Banaszak, Fair Trial Rights of the Accused, Greenwood Press, 2002, tr.10). Nội dung này được ghi nhận tại Điều 14.3(g) Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc.
(16) Phát biểu của nhiều luật sư tham dự Hội thảo quốc tế về “Quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam” do Liên đoàn Luật sư Việt Nam phối hợp với UNDP (Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc) tổ chức vào ngày 02-03/12/2010 tại Tp. Hồ Chí Minh.
(17) Theo khoản 4 Điều 56 BLTTHS thì trong thời hạn 3 ngày (hoặc 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ) kể từ ngày nhận được đề nghị của NBC kèm theo những giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận NBC để họ thực hiện việc bào chữa.
(18) Theo kết quả khảo sát của Liên đoàn luật sư, đến cuối năm 2009, trong cả nước có 62 Đoàn luật sư với hơn 5.000 luật sư và 2000 người tập sự hành nghề luật sư hoạt động trong gần 1.500 tổ chức hành nghề luật sư. Cũng theo khảo sát này, tỷ lệ số luật sư trên dân số ở Việt Nam là 1 luật sư/hơn 17.000 người dân. Tỉ lệ này là quá thấp so với các nước lân cận (Thái Lan: 1/1.526, Singapore: 1/1.000, Nhật Bản: 1/4.546).
(19) Luật Luật sư quy định những người đang là cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước đã được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư sẽ bị thu hồi.
(20) Điều 17 Pháp lệnh Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư.” Hiện tại, văn bản này đã bị hủy bỏ và được thay thế bằng Luật Cán bộ, Công chức có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
(21) Điều 14 Luật Viên chức 2010.
(22) Khoản 1, Điều 11 Nghị định 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư.
(23) Điều 1 Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 ghi nhận: “Từ nay, trước các Toà án thường và Toà án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Toà án binh tại mặt trận, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận.”

TCNCLP--(*) ThS. Lương Thị Mỹ Quỳnh - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

No comments:

Post a Comment