Những điểm mới về quyền của người khiếu nại trong Luật Khiếu
nại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Lượt xem: 13
Cập nhật ngày: 11/05/2012
Những điểm
mới về quyền của người khiếu nại trong Luật Khiếu nại nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân
Sau nhiều năm thực hiện, đến nay Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã bộc
lộ một số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, chưa đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong việc khiếu nại - một trong
những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo
đảm thực hiện. Cụ thể như cơ chế giải quyết khiếu nại chưa đảm bảo đầy đủ tính
khách quan, công khai, dân chủ; việc khởi kiện của người dân tại Tòa án còn bị
hạn chế; nhiều trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, vì
vậy chưa tạo thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức. Vai trò của các tổ chức
chính trị - xã hội, của luật sư và trợ giúp viên pháp lý trong quá trình giải
quyết khiếu nại chưa được quy định cụ thể, còn hạn chế. Bên cạnh đó, một số văn
bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại như
pháp luật về đất đai, Luật Tố tụng hành chính còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo
với Luật Khiếu nại, tố cáo, chưa tạo sự thống nhất trong các quy định về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại…
Chính vì vậy Luật Khiếu nại năm 2011 được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ
02 thông qua ngày 11/11/2011, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2012 đã đưa
ra những quy định mới về quyền của người khiếu nại nhằm khắc phục những nhược
điểm này và ngày càng đảm bảo cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Đối với việc nhờ Luật sư giúp đỡ trong quá trình giải quyết khiếu nại,
nếu như trước đây Luật khiếu nại, tố cáo chỉ quy định người khiếu nại có quyền
nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại thì lần này Luật Khiếu nại năm 2011 quy
định người khiếu nại được nhờ Luật sư tư vấn
về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một điểm mới, tiến bộ
nhằm giúp cho người khiếu nại vốn là bên “yếu thế” ít hiểu biết pháp luật được
trợ giúp, tiếp cận những quy định của pháp luật để nhằm bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của mình. Khi cần thiết họ có thể ủy quyền toàn bộ cho Luật sư thay mặt
mình để tham gia giải quyết khiếu nại. Việc quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ
của Luật sư trong quá trình tham gia tư vấn hoặc trực tiếp vào giải quyết khiếu
nại hành chính, nâng cao vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ lợi ích chính
đáng của công dân theo thủ tục hành chính cũng là một biện pháp để chuyên môn
hóa hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính.
Để phù hợp với những quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, trong
trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của
pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền
cho Trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn sâu sắc của nhà nước ta chăm lo
đến các đối tượng chính sách, người nghèo, người già yếu cô đơn, đồng bào dân
tộc thiểu số… nhằm giúp họ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền hợp pháp của mình.
Đối với quyền được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu
nại, lần này Luật Khiếu nại năm 2011quy định rõ hơn, cụ thể hơn so với Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Điều này đã giúp cho người khiếu nại tiếp cận được
nguồn thông tin cần thiết để làm căn cứ cho việc khiếu nại của mình. Cụ thể
Luật quy định Người khiếu nại cũng được biết, đọc, sao chụp, sao chép và xem
các tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết
khiếu nại, (Trừ thông tin tài liệu thuộc bí mật nhà nước). Việc quy định này sẽ
giúp cho người khiếu nại biết được các căn cứ pháp lý, các chứng cứ liên quan
mà người giải quyết khiếu nại áp dụng để giải quyết, đồng thời nâng cao tính
trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại trong việc cung cấp các hồ sơ tài
liệu cho người khiếu nại, và người giải quyết khiếu nại cũng phải thận trọng
hơn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật, các chứng cứ thu thập để
giải quyết.
Lần đầu tiên Luật Khiếu nại quy định cho người khiếu nại có quyền yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài
liệu liên quan tới nội dung khiếu nại, cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình
trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho người giải quyết
khiếu nại.(Trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước). Việc quy định trên
đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho người khiếu nại tiếp cận với những tài liệu
chứng cứ liên quan đến việc khiếu nại để làm cơ sở cho việc khiếu nại của mình.
Điều này đã xóa bỏ được “cơ chế xin cho” trong việc đề nghị các cơ quan tổ chức
cung cấp hồ sơ tài liệu có liên quan, đồng thời giải tỏa được “gánh nặng” của
người khiếu nại khi phải đi “xin” tài liệu ở các cơ quan, tổ chức đang lưu giữ.
Nếu như trước đây việc người khiếu nại đến các cơ quan nhà nước đề nghị cung
cấp hồ sơ tài liệu gặp rất nhiều khó khăn do việc có cung cấp hay không là
“quyền” của cơ quan, tổ chức đó, thì nay với quy định này việc cung cấp hồ sơ
tài liệu cho người khiếu nại không còn là “quyền” nữa mà là “nghĩa vụ” phải
cung cấp trong thời hạn nhất định của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan.
Một quy định mới nữa về quyền của người khiếu nại đó là họ có quyền yêu
cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu
quả có thể xảy ra do việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại. Xuất
phát từ thực tiễn đã có không ít vụ việc vì thi hành quyết định hành chính sai,
để lại hậu quả lớn rất khó khắc phục về sau gây khó khăn cho công dân và các cơ
quan nhà nước. Nay với quy định này sẽ giúp làm tránh những thiệt hại không thể
khắc phục được do phải thi hành quyết định hành chính có sai trái.
Vấn đề khởi kiện hành chính tại Tòa
án cũng được Luật Khiếu nại quy định rõ hơn, cụ thể hơn. Nếu như trước đây,
việc khởi kiện hành chính tại Toà án của công dân gặp rất nhiều khó khăn do quy
định bất cập của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và Luật Tố tụng hành chính và
người dân chỉ có thể khởi kiện ra tòa sau khi đã qua bước giải quyết khiếu nại
tại các cơ quan hành chính nhà nước, thì nay Luật Khiếu nại quy định quyền khởi kiện vụ án
hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Điều đó có
nghĩa là người khiếu nại có thể lựa chọn và
khởi kiện thẳng ra Tòa án, khiếu nại không còn là thủ tục bắt buộc. Quy định
này phù hợp với tinh thần của Luật Tố tụng hành chính và tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho người dân trong khi thực hiện quyền khiếu kiện của mình.
Có thể nói rằng với những quy định
mới về quyền của người khiếu nại trong Luật Khiếu nại năm 2011 không chỉ hướng
đến việc mở rộng dân chủ trong việc thực hiện quyền chính trị cơ bản của công
dân mà còn góp phần hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo – một trong những
yêu cầu của cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện
nay.
Bùi Đăng Vương – Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Ngãi—CTTĐT Bộ Tư pháp
Vài so sánh giữa công chức và viên chức
Lượt xem: 15
Cập nhật ngày: 05/05/2012
Vài so sánh giữa công chức và viên chức
Ngày 01/01/2012 vừa qua, Luật Viên chức có hiệu lực, hai năm trước
đó, Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực. Đây là lần đâu tiên có 2 luật quy định
cụ thể thế nào là cán bộ, công chức và viên chức; những việc cán bộ, công chức
và viên chức không được làm; chế độ lương, hình thức kỷ luật khi có vi phạm….
Trước đó, Pháp lệnh Cán bộ, công chức chưa có quy định rõ về những nội dung này
dẫn đến tình trạng bản thân người đang làm trong nhà nước nhưng không biết rõ
mình là cán bộ, công chức hay viên chức?
Theo quy định tại Điều 4 Luật Cán bộ, công
chức thì công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Còn Luật Viên chức quy định: “Viên chức là
công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn
vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc
thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng
chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập, khác với lao động của
công chức mang tính chất quyền lực công.
Còn đơn vị sự nghiệp công lập, đó là “tổ chức
do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp
dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”.
Về tuyển dụng
Về căn cứ tuyển
dụng: Việc tuyển dụng công chức phải căn cứ vào
yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Còn theo Luật Viên chức
thì việc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc
làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp
công lập.
Về hình thức
tuyển dụng: Viên chức được thực hiện thông qua thi
tuyển hoặc xét tuyển, do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được giao
quyền tự chủ thực hiện (hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý thực hiện hoặc theo
phân cấp). Và sau khi có quyết định tuyển dụng, viên chức phải thực hiện ký hợp
đồng làm việc lần đầu nếu được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao theo
thời hạn hợp đồng thì được xem xét bổ nhiệm chính thức vào chức danh nghề
nghiệp tương ứng với vị trí việc làm của viên chức theo quy định và phải thực
hiện ký hợp đồng.
Trong khi đó, theo Luật Cán bộ, công chức,
hình thức tuyển dụng công chức được thực hiện chặt chẽ hơn và bắt buộc phải
thông qua thi tuyển (trừ trường hợp được xét tuyển với điều kiện người đó có đủ
điều kiện về sức khỏe, văn bằng, độ tuổi, cam kết tình nguyện làm việc từ 5 năm
trở lên ở miền núi, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn… có thể được tuyển dụng
thông qua xét tuyển). Và sau khi có Quyết định tuyển dụng của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền công chức chỉ thực hiện việc tập sự theo nội dung Quyết định
tuyển dụng nếu được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì được xem xét
bổ nhiệm chính thức vào một ngạch bậc của công chức theo quy định.
Công chức được phân chia theo “ngạch”, còn
viên chức thì không được phân thành ngạch như ngạch chuyên viên, cán sự,… mà
được được phân theo chức danh nghề nghiệp. Chức danh nghề nghiệp thể hiện trình
độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh vực nghề
nghiệp. Ví dụ viên chức ngạch giảng viên có giảng viên, giảng viên chính, giảng
viên cao cấp… Chức danh nghề nghiệp được bổ nhiệm cho viên chức theo các nguyên
tắc: làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp
tương ứng với vị trí việc làm đó, người được bổ nhiệm phải đủ tiêu chuẩn của
chức danh nghề nghiệp. Việc thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức
được thực hiện thông qua thi hoặc xét.
Về điều kiện
tham gia dự tuyển: Tiêu chuẩn chung
cho người tham gia dự tuyển của công chức và viên chức là có quốc tịch Việt
Nam, có đơn đăng ký dự tuyển, có lý lịch rõ ràng, có văn bằng chứng chỉ phù
hợp, có đủ sức khoẻ để thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,
đối với công chức thì bắt buộc phải từ đủ 18 tuổi trở lên còn đối với viên chức
thì đối với một số lĩnh vực hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao,
tuổi dự tuyển có thể thấp hơn theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải có
sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
Nơi làm việc: Viên chức làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp công lập như các lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học, văn
hóa, thể thao… còn công chức làm việc trong các cơ quan: Cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; Bộ máy lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội….
Lương và các chế độ liên quan đến tiền lương
Công chức theo biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập (đối với những người trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập).
Viên chức theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp, tương xứng với vị trí việc làm,
chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc hoặc
nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, viên chức được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc trong các trường hợp: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm
việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp
đồng làm việc; không được trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời
hạn theo hợp đồng làm việc; không đủ sức khỏe hoặc không đủ điều kiện để tiếp
tục thực hiện hợp đồng làm việc; được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội hoặc được cấp có thẩm quyền
điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ được quy định là công chức theo quy định của
pháp luật; viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ quan y tế
có thẩm quyền. Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc với viên chức trong các trường hợp sau: viên chức có hai năm liên tiếp bị
phân loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm vụ; viên chức bị ốm đau đã
điều trị 12 tháng liên tục (đối với hợp đồng làm việc không xác định thời hạn)
hoặc sáu tháng liên tục (đối với hợp đồng làm việc xác định thời hạn) mà khả
năng làm việc chưa hồi phục; khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động
hoặc thu hẹp quy mô do những lý do bất khả kháng.... Đối với trường hợp có
tranh chấp về hợp đồng làm việc thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp
luật về lao động.
Các hình thức kỷ luật
Đối
với công chức, Luật Cán bộ, công chức quy định “Công chức vi phạm quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: khiển
trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức
và buộc thôi việc”.
Điều
52 Luật Viên chức quy định “Viên chức vi phạm các quy định của pháp luật trong
quá trình thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm, phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau: Khiển trách; cảnh cáo;
cách chức và buộc thôi việc” (không có hình thức hạ bậc lương, giáng chức giống
như công chức).
Chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ công chức
Do
đặc thù của Việt Nam ,
giữa viên chức và cán bộ, công chức luôn có sự liên thông, chuyển đổi giữa các
cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội. Vì
vậy, Luật Viên chức có quy định các trường hợp cụ thể về việc chuyển đổi này.
Đó là: (1) Viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập từ đủ 5 năm trở lên
thì được xét chuyển thành công chức không qua thi tuyển; (2) Viên chức được
tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định là công chức
thì quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm vào vị trí việc làm được pháp luật quy định
là công chức đồng thời là quyết định tuyển dụng; (3) Cán bộ, công chức được
chuyển sang làm viên chức khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật
Viên chức; (4) Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp
tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển sang làm viên
chức và được bố trí công việc phù hợp.
KN
CTTĐT Bộ Tư pháp
No comments:
Post a Comment