Wednesday, February 22, 2012

Pháp quyền và Hiến pháp


David Williams
Trong một xã hội pháp quyền, nguyên tắc pháp quyền cơ bản là quyền lực của chính quyền phải chịu ràng buộc trong khuôn khổ các nguyên tắc pháp lý bền vững, được bảo vệ bởi một bản hiến pháp khó thay đổi. Để pháp quyền trở thành hiện thực, hệ thống tòa án cần được đào tạo về chuyên môn, trung thành với pháp luật, và đặc biệt phải được đảm bảo tính độc lập cao.
Quyền lực chính quyền phải chịu ràng buộc bởi các nguyên tắc pháp lý bền vững

Ở một số quốc gia, chính quyền hoàn toàn tự do làm bất cứ điều gì mà họ muốn mà không phải chịu bất cứ ràng buộc nào từ bên ngoài. Ở những nơi này, chính quyền nắm quyền lực tối cao. Họ dùng luật để cai trị người dân, nhưng chính họ lại không phải là đối tượng chịu điều chỉnh bởi bất cứ một hệ thống những nguyên tắc pháp lý tối thượng nào đứng trên những mong muốn của họ. Những quốc gia như thế được gọi là những quốc gia pháp trị (rule by law): luật pháp chỉ là công cụ của những người có quyền lực dùng để thống trị người khác. Kinh nghiệm thế giới cho thấy những chính quyền như thế là rất nguy hiểm cho người dân. Những chính quyền này có thể vi phạm quyền của công dân, như tước đoạt đất đai tùy tiện hay nhũng nhiễu hối lộ. Dù có thể họ được bầu lên một cách dân chủ nhưng sau đó họ có thể toan tính cầm quyền mãi mãi và giao những vai trò quan trọng trong chính quyền cho thân bằng quyến thuộc của họ. Sau một cuộc bầu cử, phe thắng cử có thể dùng quyền lực mới giành được để đàn áp đối lập, như bằng cách đặt các đảng chính trị khác ra ngoài vòng pháp luật và bỏ tù lãnh đạo của các đảng đó, hoặc chỉ dành những quyền lợi tài chính cho những người đã ủng hộ họ mà không dành cho ai khác. 

Nếu được cho phép có quyền hạn tối thượng, một chính quyền có thể làm bất kỳ điều gì họ muốn mà không chịu trách nhiệm trước người dân. Một chính quyền như thế sớm muộn cũng sẽ trở nên một chính quyền áp bức.
Nếu được cho phép có quyền hạn tối thượng, một chính quyền có thể làm bất kỳ điều gì họ muốn mà không chịu trách nhiệm trước người dân. Một chính quyền như thế sớm muộn cũng sẽ trở nên một chính quyền áp bức. Khi quyền lực không bị kiềm chế và kiểm soát, người đức hạnh cũng có khuynh hướng trở nên bạo ngược.


Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của người dân, không thể để chính quyền có thể tự do làm bất cứ điều gì họ muốn. Thay vào đó, chính quyền phải bị ràng buộc bởi những nguyên tắc pháp lý bền vững. Những nguyên tắc này, bên cạnh những ràng buộc khác, là nhằm bảo vệ quyền cá nhân, định ra những cuộc bầu cử định kỳ, tự do, công bằng, và giới hạn những gì những người thắng cử có thể làm với những người thất cử. Những quốc gia có chính quyền như thế được gọi là những quốc giapháp quyền (rule of law): luật pháp, chứ không phải chính quyền, mới là thực thể có quyền lực cuối cùng. Ngày nay hầu như mọi người đều tin rằng pháp quyền là yếu tố quan trọng cho một chính quyền hợp thức và công minh.

Pháp quyền được bảo vệ hữu hiệu nhất bởi một bản hiến pháp khó thay đổi 


Nhiều quốc gia pháp trị muốn trở thành pháp quyền. Trong quá trình chuyển đổi, họ phải tìm cách thiết lập và bảo vệ các nguyên tắc pháp lý bền vững nhằm hạn chế quyền hạn của chính quyền. Nếu người dân không thực sự coi trọng nguyên tắc pháp quyền, thì nền pháp quyền đó sẽ không phát triển. Vì vậy, để bảo vệ nền pháp quyền, đầu tiên có thể tính đến yếu tố văn hóa: một xã hội coi trọng pháp quyền là điều kiện cần để tạo nền tảng cho một nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, yếu tố văn hóa không đủ, vì chính quyền không phải lúc nào cũng tôn trọng ý chí của nhân dân. Do đó, minh định các nguyên tắc pháp quyền trong một hiến pháp được viết ra và tồn tại lâu dài là cần thiết.

Hiến pháp bảo vệ pháp quyền bằng nhiều cách.

…xét theo một góc độ lý tưởng, việc toàn dân tham gia làm ra hiến pháp giúp họ trực tiếp xây dựng và xác lập các “pháp quyền” cho đất nước. Khi đó, thành quả lập hiến đại chúng sẽ bảo vệ nền pháp quyền hữu hiệu hơn nhiều so với một bản hiến pháp áp đặt bởi các cơ quan quyền lực… hiến pháp được toàn dân thông qua sẽ góp phần cải thiện cuộc sống của mỗi người dân. Kết quả là người dân sẽ thấy gắn bó và muốn bảo vệ hiến pháp.
•    Thứ nhất, bởi vì hiến pháp được soạn thảo với những điều khoản cụ thể và bất kỳ ai quan tâm cũng có thể nắm bắt ngay nội dung của pháp quyền, cũng như những quy tắc pháp lý nhằm bảo vệ người dân mà pháp quyền đòi hỏi chính quyền phải tôn trọng. Điều đó cũng có nghĩa là giới hạn quyền lực của các quan chức chính quyền cũng được đề ra cụ thể. Nếu họ không tôn trọng những giới hạn đó, các quan chức khác và công dân sẽ có cơ sở pháp lý, vốn đã được viết ra một cách rõ ràng, để áp dụng nhằm bảo vệ hiến pháp và kiểm soát những quan chức vi phạm.


•    Thứ hai, xét theo một góc độ lý tưởng, việc toàn dân tham gia làm ra hiến pháp giúp họ trực tiếp xây dựng và xác lập các “pháp quyền” cho đất nước. Khi đó, thành quả lập hiến đại chúng sẽ bảo vệ nền pháp quyền hữu hiệu hơn nhiều so với một bản hiến pháp áp đặt bởi các cơ quan quyền lực. Bởi vì, khi quần chúng tham gia thiết lập nền pháp quyền cho chính quốc gia của họ, họ sẽ có cơ hội đề ra những nguyên tắc pháp quyền đáp ứng được nhu cầu và hoàn cảnh cụ thể của họ. Qua đó giúp các cơ quan quyền lực được giới hạn bởi những nguyên tắc pháp quyền phù hợp để vận hành tốt hơn, và sinh hoạt chính trị của đất nước cũng sẽ lành mạnh hơn. Chính trị lành mạnh hơn sẽ tạo ra những điều kiện sống tốt hơn: kinh tế phát triển hơn, trường học và y tế tốt hơn, bảo vệ môi trường hiệu quả hơn, v.v… Nói một cách khác, hiến pháp được toàn dân thông qua sẽ góp phần cải thiện cuộc sống của mỗi người dân. Kết quả là người dân sẽ thấy gắn bó và muốn bảo vệ hiến pháp: nếu hiến pháp đã được làm ra để bảo vệ người dân, người dân cũng sẽ muốn bảo vệ nó. 

•    Thứ ba, một bản hiến pháp tốt sẽ phân chia quyền lực cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau, do đó sẽ rất khó cho một cá nhân hoặc một cơ quan nhà nước thâu tóm hết tất cả quyền lực. Kết quả là, nếu một cá nhân hoặc cơ quan nhà nước tìm cách vi phạm hiến pháp, những cá nhân hoặc cơ quan nhà nước khác có thể ngăn chặn các vi phạm đó. Ví dụ rõ ràng nhất là một cơ chế bảo vệ hiến pháp, dù đó là một tòa án hoặc một cơ quan bảo hiến nào khác, sẽ xem xét kỹ lưỡng văn bản và hành động của các quan chức để xác định xem họ có hành xử phù hợp với hiến pháp hay không. Tất nhiên, cơ quan bảo hiến không phải là định chế duy nhất có thể bảo vệ pháp quyền. Nếu một quan chức, ở bất kể cương vị nào, hành xử một cách vi hiến, các thành phần khác của hệ thống chính trị có thể có khả năng kiểm soát và ngăn chặn quan chức đó - các thành phần khác ở đây có thể là cơ quan lập pháp, các cơ quan hành chính, chính quyền địa phương, công dân, hoặc thậm chí là thành viên nội các. Như vậy, một bản hiến pháp tốt không chỉ xác định các nguyên tắc pháp quyền, nó còn cần đặt ra một cơ cấu chính quyền để bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền đó. 

•    Cuối cùng, một hiến pháp tốt phải là một hiến pháp khó sửa đổi và không cần phải sửa đổi thường xuyên. Tốt nhất là những sửa đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết phê chuẩn. Sửa đổi hiến pháp chỉ có thể được thông qua bởi đa số hoặc thậm chí siêu đa số phiếu thuận. Điều quan trọng nhất là chính quyền không được phép tự sửa đổi hiến pháp. Khi bản hiến pháp được bảo vệ bằng cách này, nền pháp quyền sẽ bền vững, vì một hiến pháp tốt chính là hiện thân của pháp quyền. 

Những nguyên tắc pháp lý bền vững cốt lõi

Các quốc gia khác nhau có thể chọn những nguyên tắc pháp lý khác nhau, phù hợp đối với hoàn cảnh của quốc gia đó. Nhưng nền pháp quyền đòi hỏi một số nguyên tắc pháp lý cốt lõi mà mọi quốc gia pháp quyền cần tuân thủ. 

...khi muốn xác định ý nghĩa của “pháp quyền” cho một quốc gia, câu hỏi thực sự cần được đặt ra là “chúng ta đang muốn đặt ra trong hiến pháp những giới hạn pháp lý lâu dài nào đối với chính quyền?” Hiện nay, hầu như cả thế giới đều đồng thuận rằng một chính quyền tốt là một chính quyền dân chủ, tôn trọng các quyền cá nhân, và chỉ hành xử theo các quy chuẩn pháp lý minh bạch.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “pháp quyền”, và cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về một định nghĩa phổ quát cho khái niệm này. Các chính trị gia hoặc các nhà bình luận đôi khi sử dụng cụm từ này một cách mơ hồ mà không xác định ý nghĩa của nó. Các học giả tuy chưa đạt đồng thuận về một định nghĩa nhất quán, nhưng ít ra họ cũng đề xuất những định nghĩa cụ thể hơn. Đến nay, tất cả học giả đều đồng ý rằng, trong một quốc gia pháp quyền, quyền lực nhà nước nhất thiết phải bị giới hạn bởi một số nguyên tắc pháp lý bền vững. Nhưng các nguyên tắc pháp lý này cụ thể là những gì thì họ chưa thống nhất. Một số học giả cho rằng nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi những quy chuẩn pháp lý minh bạch. Một số học giả khác tin rằng pháp quyền đòi hỏi dân chủ và quyền con người.


•    Quy chuẩn pháp lý minh bạch đòi hỏi khi các nhà lập pháp phải soạn ra những điều luật rõ ràng, sao cho người dân dễ dàng nắm bắt các quy định có liên quan đến đời sống của họ, nhằm hoạch định cuộc sống của họ cho phù hợp. Chẳng hạn, luật hình sự không được mập mờ khi quy định những hành vi nào là bất hợp pháp, để người dân biết và tránh các hành vi đó. Luật hợp đồng cần rõ ràng về những biện pháp thi hành, dù đối với giao kèo mua đất hay thỏa thuận thành lập hiệp hội kinh doanh, để người dân có thể quyết định một cách sáng suốt trước khi đặt bút ký và chấp nhận những nghĩa vụ pháp lý đi kèm. Tương tự, trong tất cả các lĩnh vực khác của pháp luật, người dân cần có điều kiện hợp lý để nắm bắt luật pháp. Nếu không, nhà nước luôn có thể tùy tiện can thiệp và xâm phạm vào cuộc sống của công dân mà họ không lường trước được – điều này cũng đồng nghĩa với việc để cho chính quyền hành xử độc đoán. Để đảm bảo rằng mọi công dân hiểu biết luật và điều chỉnh cuộc sống của họ cho phù hợp, quy chuẩn pháp lý minh bạch đòi hỏi luật pháp phải được phổ biến công khai (không bí mật), không hồi tố (không áp dụng đối với các hành vi trước khi luật được thông qua), rõ ràng (để ai cũng có thể hiểu cụ thể các quy định pháp luật), và phổ quát (áp dụng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, yếu mạnh, quan chức hay dân thường v.v...).

•    Dân chủ về cơ bản là một chế độ chính trị trong đó người dân tự cai trị. Chế độ dân chủ đại diện là phổ biến nhất: người dân tham gia vào những cuộc bầu cử có tính tự do, công bằng, và thật sự có tính đại diện cao cho những quyền lợi và nhu cầu thực tiễn phong phú, đa dạng của người dân, từ đó bầu ra những dân biểu thực sự có năng lực để thay mặt họ quản lý nhà nước. Nguyên tắc pháp quyền đòi hỏi chế độ dân chủ để pháp quyền được thực thi, nhưng nó không chỉ định một hình thức dân chủ cụ thể nào, miễn là người dân thực sự kiểm soát chính quyền chứ không phải là chính quyền cai trị họ. Vì có nhiều chế độ dân chủ khác nhau, mỗi quốc gia có thể lựa chọn chế độ mà họ cho là phù hợp. Một số nước theo tổng thống chế, một số khác theo chế độ nghị viện. Một số nước chọn chế độ lập pháp lưỡng viện, trong khi đó một số khác lại chọn lập pháp đơn viện. Một số nước chọn nguyên tắc đại diện theo tỷ lệ, một số khác theo hệ thống đa số đại diện. Và còn nhiều ví dụ khác. 

•    Quyền cá nhân thuộc phạm vi tự chủ, là quyền đòi hỏi có được những điều kiện cần thiết cho những lĩnh vực đời sống quan trọng nhất của cá nhân, trước hết là với tư cách công dân, như quyền bầu cử, hay với tư cách cá nhân riêng tư, như quyền thành hôn. Chính  quyền không thể xâm phạm các quyền này, trừ những trường hợp đặc biệt cần thiết, như khi an ninh quốc gia đang bị đe dọa nghiêm trọng, hay trong nỗ lực ngăn chặn một âm mưu khủng bố nơi công cộng. Tuy nhiên, chính quyền không thể hạn chế quyền của các cá nhân chỉ đơn giản với lý do chung chung, ví dụ như “trật tự công cộng”. Hầu hết những người cổ vũ pháp quyền đều tin rằng mọi quốc gia phải tôn trọng một số quyền căn bản, vốn thường được gọi là “nhân quyền” trong luật quốc tế. Bên cạnh những quyền căn bản đó, quốc gia có thể lựa chọn bảo vệ những quyền cá nhân khác, tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Ví dụ, hiến pháp Hoa Kỳ công nhận quyền sở hữu súng tư nhân, nhưng không bảo vệ quyền hưởng y tế công cộng; ngược lại, hiến pháp của Đức lại bảo vệ quyền hưởng y tế công cộng mà không cho phép cá nhân sở hữu súng. 

Như vậy, rõ ràng định nghĩa khái niệm “pháp quyền” chỉ là một quy ước, có thể mang bất kỳ ý nghĩa gì mà một xã hội quyết định. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, để bảo vệ quyền lợi của người dân, một nền pháp quyền đòi hỏi chính quyền phải bị giới hạn bằng những nguyên tắc pháp lý bền vững. Vì vậy, khi muốn xác định ý nghĩa của “pháp quyền” cho một quốc gia, câu hỏi thực sự cần được đặt ra là “chúng ta đang muốn đặt ra trong hiến pháp những giới hạn pháp lý lâu dài nào đối với chính quyền?” Hiện nay, hầu như cả thế giới đều đồng thuận rằng một chính quyền tốt là một chính quyền dân chủ, tôn trọng các quyền cá nhân, và chỉ hành xử theo các quy chuẩn pháp lý minh bạch.

Để pháp quyền trở thành hiện thực, hệ thống tòa án cần đảm bảo tính độc lập, được đào tạo chuyên môn, và trung thành với pháp luật

Pháp quyền là các nguyên tắc pháp lý được soạn thảo trong hiến pháp nhằm giới hạn quyền lực của chính quyền. Chính quyền không thể coi nhẹ các nguyên tắc này, vì quyền lực chính quyền bị giới hạn bằng pháp luật là đòi hỏi tiên quyết của pháp quyền. Tuy vậy, chỉ đề ra các nguyên tắc pháp quyền là chưa đủ, còn cần có cơ quan áp dụng và giám sát việc thi hành các nguyên tắc này.  

Để làm tốt vai trò của mình, tòa án không cần nhiều tiền hoặc cảnh sát hỗ trợ. Yếu tố đầu tiên tòa án cần là sự độc lập với các cơ quan khác trong chính quyền, để tòa án có thể đảm bảo tất cả các bộ phận của chính quyền tuân thủ pháp quyền mà không có sự thiên vị hoặc nể nang, kiêng dè.
Toà án, hoặc các định chế tương tự, không có nhiều quyền lực để thực thi quyết định họ thông qua – như ngạn ngữ thường nói, tòa án “không có tiền mà cũng chẳng có vũ khí.” Chiếu theo các tiêu chuẩn đánh giá quyền lực thông thường, tòa án là một trong những định chế nhà nước yếu nhất. Nếu một bộ phận chính quyền cố ý vi phạm pháp luật, chỉ có nhân dân (qua cơ chế chính trị dân chủ - bầu cử) hoặc các bộ phận khác của chính quyền (qua kiểm soát và cân bằng quyền lực) mới có sức mạnh ngăn chặn các vi phạm đó. Dù vậy, tòa án, hoặc các định chế bảo hiến, giữ một vai trò khác nhưng không kém phần quan trọng: họ có thể giải thích luật, giúp nhân dân và các cơ quan khác của chính quyền biết một người hoặc một cơ quan chính quyền đang tìm cách vi phạm pháp luật. Với căn cứ chính tắc là kết luận của toà án, nhân dân và các cơ quan công quyền có quyền lực mạnh hơn tòa án, sẽ hợp lực để bảo đảm pháp quyền được thực thi.


Để làm tốt vai trò của mình, tòa án không cần nhiều tiền hoặc cảnh sát hỗ trợ. Yếu tố đầu tiên tòa án cần là sự độc lập với các cơ quan khác trong chính quyền, để tòa án có thể đảm bảo tất cả các bộ phận của chính quyền tuân thủ pháp quyền mà không có sự thiên vị hoặc nể nang, kiêng dè. Trong công việc của mình, các thẩm phán đôi khi sẽ cần phải đưa ra những quyết định gây tranh cãi, có thể làm một số quan chức chính quyền khó chịu, và đôi khi có thể làm đa số người dân phật ý. Để có thể thực hiện bổn phận, các thẩm phán cần phải được bảo vệ để tránh bị trả thù: an ninh thân thể của họ phải được bảo vệ, và nhiệm kỳ của họ phải được bảo đảm, cùng với mức lương cố định. 

Ngoài ra, bản thân các thẩm phán không được coi họ là chính trị gia. Vai trò chính trị gia đòi hỏi nhà chính trị phải trung thành với cử tri hoặc với các chính trị gia khác. Trong khi đó, các thẩm phán phải tâm niệm bản thân mình làm việc theo chuyên môn và trung thành với pháp luật. Để làm được điều đó, các thẩm phán phải là những người được đào tạo chuyên sâu về luật. Các thẩm phán cũng cần phải trung dung: họ không được dính líu hay phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực khác của chính quyền, các tổ chức chính trị, hoặc các nhóm lợi ích kinh tế. Với tư cách công dân, họ có quyền đi bầu cử. Thậm chí, họ có thể là một thành viên của một tổ chức chính trị, nhưng không được tham gia vào các hoạt động đảng chính trị, hay nắm giữ chức vụ trong các đảng chính trị, nếu những điều này ảnh hưởng tới tính trung dung mà vai trò của một người thẩm phán đòi hỏi.
Nguyễn Thị Hường và đồng nghiệp dịch

---
* Giám đốc Trung tâm Hiến pháp Dân Chủ , Đại học Indiana, Hoa Kỳ

TRAO ĐỔI VỀ BÀI VIẾT: “TỘI GIẾT NGƯỜI KHÔNG CÓ NGƯỜI CHẾT?”

lấy từ blog http://tuanhsl.blogspot.com
Vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng khiến người dân bất an (Ảnh: Tia sáng)
Tác giả: Nguyễn Minh Tuấn
(Bài viết đã gửi Tia sáng ngày 21/2/2012)

Tạp chí Tia sáng ngày 20/2/2012 có đăng bài viết Tội "giết người" không có người chết? của tác giả TS. Nguyễn Sỹ Phương. Bài viết có rất nhiều thông tin thú vị, đề cập đến những vấn đề rất bức xúc hiện nay. Tuy nhiên, sau khi đọc bài viết, tôi thấy có một vài vấn đề còn chưa rõ, rất mong được trao đổi, học hỏi thêm về mặt khoa học cùng với tác giả và bạn đọc dưới đây:

- Cần phân biệt “tội giết người đã hoàn thành” và “tội giết người chưa đạt”

TS. Nguyễn Sĩ Phương cho rằng: "Không luật pháp quốc gia tiên tiến nào cáo buộc phi thực tế, khép tội giết người lại không có người chết như vậy cả. Trong trường hợp này, pháp luật ở ta đã không hội nhập cộng đồng thế giới. Ở họ dấu hiệu đầu tiên cấu thành tội danh giết người phải có bằng chứng là nạn nhân đã chết. [….]Trong khi đó ở Việt Nam, nhiều tài liệu kể cả từ điển mở tiếng Việt, lại định nghĩa: “Hành vi giết người là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người”, “Có khả năng gây ra”, chứ không phải đã gây ra, mang thì tương lai, tức hành vi phạm tội chưa hoàn thành, nhưng vẫn bị khép tội, hoàn toàn mâu thuẫn với nguyên lý, chỉ được phép khép tội khi hành vi tội phạm đã hoàn thành.”

Tôi cho rằng luận điểm này của tác giả đưa ra về pháp luật Việt Nam là chưa thực sự thuyết phục. Theo Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam 2009, đối với tội giết người (Điều 93 và các Điều liên quan khác), hậu quả chết người vẫn là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm hoàn thành.
Vấn đề đặt ra là có những trường hợp trên thực tế chủ thể thực hiện hành vi cố ý giết người, mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của chủ thể đó. Xin nêu một ví dụ, năm 2009 có trường hợp một người phụ nữ tên là D. đã thực hiện một hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, do ghen tuông mà D. đã dùng chiếc kim khâu bao tải dài đến 8cm đâm vào đầu một cháu bé mới 40 ngày tuổi để trả thù tình địch, nhưng rất may là cháu bé đã thoát chết. Vấn đề ở đây là hung thủ chưa giết người thành công (theo cách nói của tác giả chưa có “người chết”) là do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của D.[1]Vậy trường hợp này sẽ xử lý như thế nào?
Dị vật nằm trong đầu cháu bé (Ảnh: VTC News)

Dị vật nằm trong đầu cháu bé (Ảnh: VTC News)
Do yêu cu phi xử lý đồng bộ các hành vi nguy him cho xã hi[2], trong trường hợp này nhà làm luật Việt Nam đã dự liệu rằng nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ý muốn của người phạm tội thì hành vi phạm tội vẫn có thể bị coi là giết người chưa đạt (khi có lỗi cố ý trực tiếp) theo Điều 18 BLHS 2009 hoặc là cố ý gây thương tích (khi có lỗi cố ý gián tiếp) theo Điều 104 BLHS 2009.
Trở lại trường hợp đã nêu ở trên, muốn xác định D có phạm tội giết người chưa đạt không, cần phải chứng minh ý chí của người phạm tội có mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng hậu quả đã không xảy ra do các nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội không. Nếu xác định được đúng như vậy, D. vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt.[3] Do hậu quả chưa xảy ra (cháu bé vẫn còn sống), nên thực hiện chính sách nhân đạo của nhà nước, D sẽ được xử lý nhẹ hơn tội giết người đã hoàn thành. Hay nói cách khác, không có hậu quả “người chết” nhưng theo pháp luật Việt Nam đây vẫn là “tội giết người chưa đạt”.

-  Luật pháp của Đức có qui định về phạm tội chưa đạt (Versuchsstadium, Strafbarkeit nach § 22, 23 StGB) và vấn đề phòng vệ chính đáng trong trường hợp khẩn cấp (§ 32 Notwehr)

Thứ nhất, ở Đức cũng có qui định về phạm tội chưa đạt (Tiếng Đức: Der Versuch) tại các Điều 22, 23 Bộ luật hình sự[4] , theo đó tại Điều 23 Khoản 2, tội phạm chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn tội phạm đã hoàn thành.[5] Mức độ miễn giảm cụ thể ra sao được qui định tại Điều 49 Khoản 1 Bộ luật hình sự. Như vậy, Bộ luật hình sự của Đức bên cạnh việc qui định tội phạm hoàn thành, cũng đã dự liệu cho cả những trường hợp phạm tội chưa đạt (Versuchsstadium, Strafbarkeit nach § 22, 23 StGB). Hay nói cách khác, những trường hợp cố ý giết người nhưng chưa đạt vì lý do khách quan (Tiếng Đức: Mordversuch) vẫn bị xử lý theo qui định của pháp luật Đức. (Xem thêm: Peter Kasiske, Strafrecht I: Grundlagen und Allgemeiner Teil, Stuttgart, 2011, Rn. 238 f.)
Thứ hai, phòng vệ chính đáng thì không bị coi là tội phạm. Tác giả cho rằng: “[…] hành động chống cự đó chỉ được coi phạm tội ở dạng tự vệ khẩn cấp, như Đức quy định tại điều 32 Bộ Luật Hình sự của họ”. Thông tin này theo tôi là không chính xác. Điều 32 Khoản 1 Bộ luật hình sự Đức không coi phòng vệ chính đáng trong trường hợp khẩn cấp (hay theo tác giả dịch là tự vệ khẩn cấp - Notwehr) là hành vi phạm tội. Điều khoản này qui định: Bất cứ ai thực hiện hành vi tự vệ chính đáng trong trường hợp khẩn cấp thì hành vi đó không bị coi là trái luật.[6] (Xem thêm: Peter Kasiske, Strafrecht I: Grundlagen und Allgemeiner Teil, Stuttgart, 2011, Rn. 96 f.) 

Thứ baTác giả đã nêu: “Như ở Đức tội danh này được quy định tại điều 215 Giết người, điều 216 Bức tử, điều 212 Làm chết người không chủ đích, điều 222 Ngộ sát, và điều 32 Làm chết người do tự vệ khẩn cấp.” Sau khi tra cứu lại thì tôi thấy có sự không thống nhất giữa trích dẫn của tác giả và những Điều luật hiện hành của Bộ luật hình sự Đức[7] và có kết quả khác như sau:

Trích dẫn của tác giả
Điều luật tra cứu trong Bộ luật hình sự của Đức
(có chú thích tham khảo dịch nghĩa theo cách hiểu của tôi)
Điều 215 Giết người
Điều 215 đã bị hủy bỏ (weggefallen)
Điều 211 - Mord - Tội giết người trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, mức xử phạt: tù chung thân, mức cao nhất trong BLHS của Đức (Tiếng Đức: Mord/ Tiếng Anh: Murder under specific aggravating circumstances).[8]
Điều 216 Bức tử
Điều 216 - Tötung auf Verlangen - Tội giúp người khác tự sát, mức xử phạt: phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm (Tiếng Đức: Tötung auf Verlangen/ Tiếng Anh: voluntary euthasasia, assisted suicide).[9]
Điều 212 Làm chết người không chủ đích
Điều 212 - Totschlag - Tội giết người (không thuộc trường hợp giết người trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng của Điều 211), mức xử phạt: không dưới 5 năm tù (Tiếng Đức: Totschlag/ Tiếng Anh: Murder).[10]
Điều 222 Ngộ sát
Điều 222 - Fahrlässige Tötung - Tội vô ý giết người, mức xử phạt: bị phạt tù đến 5 năm hoặc bị phạt tiền (Tiếng Đức: Fahrlässige Tötung / Tiếng Anh: negligent homicide).[11]
Điều 32 Làm chết người do tự vệ khẩn cấp
Điều 32 - Notwehr - Phòng vệ chính đáng (Tiếng Đức: Notwehr/ Tiếng Anh: self-defence).[12]

Như vậy qua phân tích đã trình bày ở trên có thể thấy, luật pháp Việt Nam và luật pháp CHLB Đức đều phân biệt rõ hành vi phạm tội chưa đạt (Versuchsstadium, Strafbarkeit nach §§ 22, 23 StGB) phạm tội đã hoàn thành (Vollendung, Alle Merkmale sind verwirklicht). Mục đích của qui định này làkhông làm oan người vô tội và không để lọt tội phạm, đồng thời phi xử lý đồng bộ các hành vi nguy him cho xã hi. (Xem thêm: Peter Kasiske, Strafrecht I: Grundlagen und Allgemeiner Teil, Stuttgart, 2011, Rn. 250). 

-               Quan điểm về trường hợp của Đoàn Văn Vươn

Liên quan đến vụ gia đình anh Vươn, tôi đồng tình với quan điểm của tác giả khi cho rằng không nên cáo buộc tội giết người trong khi vụ việc đang được tiến hành điều tra.
Đi vào cụ thể, tôi cho rằng cần làm rõ anh Vươn “có ý định giết người” hay không hay hành vi của anh chỉ là “phòng vệ chính đáng” theo Điều 15 khoản 1 BLHS 2009.
Thực tế, muốn xác định chính xác cần phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ, trong đó cần chú trọng đánh giá các nội dung, diễn biến của các yếu tố khác nhau như:
Ảnh: Tuần Việt Nam
- Địa điểm nơi anh Vươn thực hiện hành vi (Khi xem xét hành vi của anh Vươn cũng cần hết sức lưu ý rằng địa điểm thực hiện hành vi là chỗ ở riêng của họ, không nằm trong diện tích đất bị cưỡng chế)
- Hoàn cảnh cụ thể (Cần xem xét rằng hành vi của anh Vươn thực chất là chống trả lại người đang có hành vi trái pháp luật trực tiếp xâm phạm lợi ích chính đáng của mình, xâm hại chỗ ở hợp pháp của mình).
- Mối quan hệ giữa nạn nhân và anh Vươn như thế nào, nhất là mâu thuẫn giữa đôi bên sâu sắc ở mức nào (Cần lưu ý là gia đình Đoàn Văn Vươn đã tiến hành các thủ tục theo đúng qui định pháp luật, gia đình anh đã khởi kiện lên Tòa án huyện, khởi kiện tiếp lên Tòa án tỉnh thì không được giải quyết…)
- Tác dụng, tính năng của loại phương tiện mà anh Vươn sử dụng, cách thức tiến hành trên thực tế (Súng hoa cải mức độ sát thương ra sao, với loại súng tự tạo, có đủ gây chết người không);
- Hành vi tấn công, cường độ tấn công của hành vi có mức độ mãnh liệt ra sao;
- Vị trí tấn công trên cơ thể nạn nhân (Xem xét vị trí tấn công đó có chứa đựng khả năng chết người hay không);
- Động cơ nào đã thúc đẩy anh Vươn thực hiện hành vi đó (Cần xem xét động cơ thực hiện hành vi của anh Vươn là để bảo vệ tài sản, tính mạng, bảo vệ gia đình);
- Thái độ của anh Vươn biểu hiện trước và sau khi sự việc đã xảy ra như thế nào v.v… Trên thực tế, tôi cho rằng chính việc giao đất, thu hồi đất và việc cưỡng chế sai trái là nguồn gốc dẫn đến hành vi chống trả của anh em Đoàn Văn Vươn. Đến nay khi mà hành vi thu hồi đất, cưỡng chế của chính quyền đã được kết luận là bất hợp pháp (dù là từ phía Thủ tướng chính phủ, không phải Tòa án), thì có nên đặt ra vấn đề xem xét hành vi của anh Vươn theo hướng là một hành vi phòng vệ chính đáng theo Điều 15 Khoản 1 BLHS 2009 hay không? Tất nhiên để chứng minh được điều này là không dễ, nhưng đó vẫn là hướng có lợi nhất cho anh Vươn và gia đình lúc này.
Vụ việc Tiên Lãng xét rộng ra thực chất không chỉ là việc của gia đình anh Vươn mà còn liên quan đến số phận của hàng triệu người nông dân có đất và đang trong nguy cơ mất đất khác trên cả nước. Người dân rất nóng lòng chờ đợi và hy vọng với cách xử lý vấn đề hợp tình hợp lý, chính quyền sẽ tạo được niềm tin với nhân dân, đem lại nhiều điều tốt đẹp không chỉ với gia đình anh Vươn, mà còn với tất cả những người nông dân cả nước. 


[1] Xem cụ thể bài viết: Cháu bé 40 ngày tuổi bị kim khâu lốp đóng ngập đầu, đăng ngày 11/11/2009, tại đây: http://www.vtc.vn/2-231279/xa-hoi/chau-be-40-ngay-tuoi-bi-kim-khau-lop-dong-ngap-dau.htm.
[2] Xem thêm: Trịnh Tiến Việt, Về tội phạm chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà nội, Luật học 25 (2009), tr. 125–133.
[3] Xem thêm ý kiến bình luận của Luật sư Phạm Hồng Hải trong bài viết Vụ đâm kim xuyên não: Giết người vì động cơ đê hèn, đăng ngày 16/11/2009, truy cập tại địa chỉ:http://www.baomoi.com/Home/HinhSu/vtc.vn/Luat-su-Pham-Hong-Hai-Chac-chan-la-toi-giet-nguoi/3505030.epi
[4] Bộ luật hình sự của Đức (Strafgesetzbuch - StGB) được thông qua lần đầu ngày 15/5/1871, có hiệu lực 1/1/1872, sửa đổi, bổ sung gần nhất ngày 6/12/2011, hiệu lực lần sửa đổi gần nhất từ ngày 14/12/2011.
[5] Nguyên văn Tiếng Đức: „§ 23 Strafbarkeit des Versuchs (2) Der Versuch kann milder bestraft werden als die vollendete Tat.“/ Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 23 (2) An attempt may be punished more leniently than the completed offence”. Theo Điều 22 BLHS Đức hành vi phạm tội chưa đạt phải thỏa mãn hai điều kiện người thực hiện hành vi có lỗi cố ý trực tiếp (ein unmittelbares Ansetzen zur Verwirklichung des Tatbestands) và hậu quả không xảy ra là do nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người thực hiện hành vi đó (einen vorbehaltlosen Entschluss zur Verwirklichung des Tatbestandes).
[6] Nguyên văn Tiếng Đức: „§ 32 (1) Wer eine Tat begeht, die durch Notwehr geboten ist, handelt nicht rechtswidrig.“/ Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 32 (1) A person who commits an act in self-defence does not act unlawfully”.
[7] Truy cập trang web chính thức của Bộ Tư pháp liên bang Đức (Bundesministerium der Justiz), ngày 21/2/2012, truy cập tại địa chỉ  http://www.gesetze-im-internet.de/stgb/index.html hoặc Cổng thông tin pháp luật Đức (Dejure) tại địa chỉ: http://dejure.org/gesetze/StGB (Tình trạng cập nhật văn bản luật (Gesetzesstand): 14/2/2012).
[8] Nguyên bản Tiếng Đức: „§ 211 Mord (1) Der Mörder wird mit lebenslanger Freiheitsstrafe bestraft. (2) Mörder ist, wer aus Mordlust, zur Befriedigung des Geschlechtstriebs, aus Habgier oder sonst aus niedrigen Beweggründen, heimtückisch oder grausam oder mit gemeingefährlichen Mitteln oder um eine andere Straftat zu ermöglichen oder zu verdecken, einen Menschen tötet.“ Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 211 - Murder under specific aggravating circumstances (1) Whosoever commits murder under the conditions of this provision shall be liable to imprisonment for life. (2) A murderer under this provision is any person who kills a person for pleasure, for sexual gratification, out of greed or otherwise base motives, by stealth or cruelly or by means that pose a danger to the public or in order to facilitate or to cover up another offence.
[9] Nguyên bản Tiếng Đức: „§ 216 Tötung auf Verlangen (1) Ist jemand durch das ausdrückliche und ernstliche Verlangen des Getöteten zur Tötung bestimmt worden, so ist auf Freiheitsstrafe von sechs Monaten bis zu fünf Jahren zu erkennen. (2) Der Versuch ist strafbar”./ Dịch tham khảo Tiếng Anh:“Section 216 - voluntary euthasasia, assisted suicide (1) If a person is induced to kill by the express and earnest request of the victim the penalty shall be imprisonment from six months to five years. (2) The attempt shall be punishable”.
[10] Nguyên bản Tiếng Đức: “§ 212 Totschlag (1) Wer einen Menschen tötet, ohne Mörder zu sein, wird als Totschläger mit Freiheitsstrafe nicht unter fünf Jahren bestraft. (2) In besonders schweren Fällen ist auf lebenslange Freiheitsstrafe zu erkennen.“/  Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 212 Murder (1) Whosoever kills a person without being a murderer under section 211 shall be convicted of murder and be liable to imprisonment of not less than five years. (2) In especially serious cases the penalty shall be imprisonment for life”.
[11] Nguyên bản Tiếng Đức: „§ 222 Fahrlässige Tötung - Wer durch Fahrlässigkeit den Tod eines Menschen verursacht, wird mit Freiheitsstrafe bis zu fünf Jahren oder mit Geldstrafe bestraft.“ Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 222 Negligent homicide - Whosoever through negligence causes the death of a person shall be liable to imprisonment of not more than five years or a fine.
[12] Nguyên bản Tiếng Đức: „§ 32 (1) Wer eine Tat begeht, die durch Notwehr geboten ist, handelt nicht rechtswidrig.“/ Dịch tham khảo Tiếng Anh: “Section 32 (1) A person who commits an act in self-defence does not act unlawfully”.