Sunday, April 14, 2013

HÃY TÌM CHO MÌNH MỘT CHỖ ĐỨNG TRONG DỰ THẢO HIẾN PHÁP


HÃY TÌM CHO MÌNH MỘT CHỖ ĐỨNG TRONG DỰ THẢO HIẾN PHÁP


GS. TS. Nguyễn Đăng Dung,
Đại học Quốc gia Hà Nội 
Nguồn: Cùng viết Hiến pháp, đăng ngày 10/3/2013,
truy cập đường link gốc tại đây

Là đạo luật về chủ quyền nhân dân, Hiến pháp khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, hay nói cách khác quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân trao cho và để phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Theo lý thuyết khế ước xã hội, các quyền tự nhiên của con người chỉ có thể được đảm bảo khi các cá nhân cùng nhau thiết lập một khế ước chung, trong đó quyền lực nhà nước bị giới hạn, các quyền và tự do của con người được ghi nhận và bảo vệ. Với quan niệm hiến pháp là bản khế ước thì việc xây dựng, soạn thảo hiến pháp phải có sự tham gia của đông đảo nhân dân nhằm đảo bảo chủ quyền nhân dân.
Nhân dân có quyền tranh luận, trao đổi, bày tỏ quan điểm, đánh giá về các vấn đề hiến pháp; và quan trọng hơn, những ý kiến, quan điểm của họ được lắng nghe. Mặc dù những điều kiện trên phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh thực tế[1], nhưng sự tham gia của nhân dân trong việc làm hiến pháp cho phép nâng cao tính trung thực của các đánh giá hiến pháp, từ đó có những quy định hiến pháp phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Khái niệm nhân dân ở đây phải được bao hàm rất rộng với nguyên tắc mọi người sinh ra đều bình đẳng. Về vấn đề này, Thomas Paine từng nói[2]“Hiến pháp không phải là đạo luật của một chính phủ, mà là đạo luật của một dân tộc nhằm cấu thành nên chính phủ..”. Quá trình xây dựng hiến pháp tất yếu diễn ra những tranh luận và thoả hiệp giữa các cá nhân và nhóm công dân nhằm tìm ra cách thức tổ chức nhà nước và quản lý xã hội mang lại nhiều lợi ích tốt nhất cho tất cả mọi chủ thể. Vì thế, có thể coi hiến pháp là một khế ước xã hội, mặc dù trên thực tế điều này không bao giờ chính xác hoàn toàn, bởi rất ít khi tất cả cá nhân và nhóm trong xã hội ở một quốc gia đều có thể tham gia và có vai trò, ảnh hưởng thực sự trong quá trình xây dựng hiến pháp.
Thuật ngữ chủ quyền nhân dân được đề cập vào thế kỷ XVIII bởi J.J.Rousseau, chỉ ý chí chung của cộng đồng xã hội (nhân dân). Theo Rousseau, chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ là biểu hiện bên ngoài, trong một giai đoạn nhất định của hoạt động của nhà nước. Thực chất, các bộ phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Chủ quyền nhân dân là nền tảng cho sự ra đời của nhà nước, vì thế cao hơn, chi phối và là cơ sở bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Hiện nay, tư tưởng về chủ quyền nhân dân đã được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiến pháp của các nước, dưới các hình thức khác nhau (nhưng thông thường ở ngay Lời nói đầu), đều khẳng định nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Ví dụ, Lời nói đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 nêu rằng: Chúng tôi nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, với mục đích xây dựng một Liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công lý, duy trì an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy sự thịnh vượng chung, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta, quyết định thiết lập hiến pháp này cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hoặc Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: Được nhân dân trao cho trách nhiệm soạn thảo hiến pháp, Quốc hội nhận thấy hiến pháp cần phải được xây dựng theo các nguyên tắc sau: Đoàn kết toàn dân không phân biệt nòi giống, giàu nghèo, gái trai, tôn giáo; bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Để thể hiện và bảo vệ chủ quyền nhân dân, thông thường hiến pháp chỉ được thông qua với sự chấp thuận của nhân dân (qua trưng cầu dân ý). Thêm vào đó, hiến pháp thường quy định các nguyên tắc bầu cử (tự do, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín) như là phương thức để nhân dân ủy quyền cho các thiết chế đại diện. Ngoài ra, việc quy định các cơ chế, thiết chế giám sát, kiểm soát quyền lực (giữa các cơ quan nhà nước và giữa nhân dân với nhà nước) trong hiến pháp cũng là những cách thức để bảo đảm quyền lực của nhân dân.
Vì vậy việc thảo luận Hiến pháp mỗi công dân Việt phải tìm được chỗ đứng của mình trong Hiến pháp. Việc không tìm thấy chỗ đứng của mình trong Hiến pháp, thì bản dự thảo Hiến pháp đã không đạt được nội dung mục đích của nó. Chỗ đứng này phải được thể hiện ở thì hiện tại, không thể là thì tương lai, có những lúc ở nghĩa trừu tượng, nhưng có những lúc buộc phải hiểu ở nghĩa rất cụ thể. Ai là người đã được nêu ra hay đã bị gạt ra ngay từ “vòng gửi xe”. Chỗ đứng đó được thể hiện trọng tâm, tập trung ở các quyền của người dân.
Các quyền đó của con người phải được thể hiện một cách bình đẳng ở mọi lĩnh vực: Chính trị, dân sự, xã hội, kinh tế:
Việc không thừa nhận quyền của con người nào đó, là lẽ đương nhiên của việc tước đoạt quyền của những người đó. Và điều ngược lại rằng, việc chỉ thừa nhận quyền của một tầng lớp nào đó, trong bất kể một lĩnh vực nào dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… cũng ngang bằng với sự tước đoạt quyền của những khác trong các lĩnh vực tương ứng. Trong khi việc tuyên bố: Mọi người sinh ra đều bình đẳng, thì việc tước đoạt này chỉ có thể có trong hai trường hợp: 1. qua sự bỏ phiếu phổ thông; 2. theo một thủ tục tố tụng được quy định chặt chẽ của họat động xét xử của tư pháp.
Thứ nhất, sự bỏ phiếu phổ thông chỉ có thể diễn ra trong một số trường hợp không rõ ràng đúng sai, theo lẽ tự nhiên, buộc phải lấy số phiếu của đa số làm phương châm cho hành động của con người, mà những người thiểu số không có được số lượng phiếu bầu đồng ý đông như bên đa số phải chấp nhận sự thua cuộc. Như việc bỏ phiếu bầu ra nghị sỹ, hoặc bỏ phiếu bầu ra tổng thống. Ứng cử viên nhận được số phiếu bầu hợp lệ theo quy định của pháp luật sẽ là nghị sỹ hoặc là tổng thống của quốc gia. Cuộc bỏ phiếu này không thể là việc quy định về quyền con người, như Thẩm phán Robert H. Jackson, trong vụ West Virginia Board of Education kiện Barnett (1943) đã chỉ rõ:
Mục đích của Tuyên ngôn nhân quyền là rút bớt một số chủ đề nhất định ra khỏi cuộc tranh cãi chính trị, đặt chúng ra ngoài những đòi hỏi của các nhóm người và quan chức nhà nước và coi chúng là những nguyên tắc pháp lý mà tòa án phải áp dụng. Quyền của con người được sống, tự do, sở hữu, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng và hội họp, và các quyền cơ bản khác không thể là kết quả của việc bỏ phiếu; chúng không phụ thuộc vào bất kỳ cuộc bầu cử nào.
Thứ hai, theo một thủ tục tố tụng, khi có sự tham gia bình đẳng giữa một bên gỡ tội và một bên buộc tội đối với các vụ việc hình sự; giữa một bên nguyên của người nại ra và với bên bị của người bị khiếu nại của vụ việc tranh chấp dân sự, mà cả hai vụ việc này phải có thẩm phán là người trọng tài giữa các bên
Vì những lẽ trên, mọi người khi thảo luận dự thảo, đều có thể tìm thấy sự hiện diện của mình trong dự thảo Hiến pháp, trong bất kể lĩnh vực nào kể cả dân sự, lẫn chính trị, văn hóa, kinh tế xã hội. Việc không tìm thấy mình một cách trực tiếp hoặc giám tiếp trong cách thể hiện của các quy định dự thảo Hiến pháp, chẳng khác nào như đã bị gạt ra ngay ở “vòng gửi xe”. Họ cần phải góp ý ngay, để kịp thời bổ sung cho dự thảo.
9 tháng 3 năm 2013 

[1] Mức độ tham gia của các tầng lớp xã hội trong quá trình sửa đổi Hiến pháp, trong đó có đánh giá việc thực thi Hiến pháp phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh chính trị tại thời điểm sửa đổi Hiến pháp: chính trị xung đột hay hoà bình, dân chủ hay độc tài, văn hoá chính trị, báo chí và sự phát triển kinh tế…
[2] Thomas Paine (1737-1809) – nhà triết học, nhà cách mạng, người theo trường phái chủ nghĩa tự do cổ điển, một nhân vật nổi bật trong phong trào Khai sáng. Ông là người ủng hộ nhiệt tình cuộc cách mạng giành độc lập của các thuộc địa Mỹ khỏi Đế chế Anh. Những tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm: Common Sense (1776),Rights of Man (1791), The Age of Reason (1794), Agrarian Justice (1795)...

QUYỀN BIỂU TÌNH: NÊN QUI ĐỊNH THẾ NÀO?


QUYỀN BIỂU TÌNH: NÊN QUI ĐỊNH THẾ NÀO?


Nguyễn Minh Tuấn
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, 
đăng ngày 14/3/2013, 
truy cập đường link tại đây(Dưới đây là bản gốc gửi Tia sáng)
Hiến pháp là nền tảng tạo nên sự an toàn pháp lý cho cả một hệ thống pháp luật. An toàn pháp lý trong Hiến pháp chỉ tồn tại khi người dân thấy được mình ở trong đó, thấy mình được bảo vệ thông qua sự minh bạch, rạch ròi, và có thể tiên liệu trước ở ngay chính trong từng Điều luật. Biểu tìnhlà môt quyền căn bản trong số rất nhiều những quyền khác cần thiết phải có một sự an toàn pháp lý như thế.

Biểu tình không xa lạ ở Việt Nam. Xét từ góc độ thực tế lịch sử, không phải đến giờ Việt Nam mới có biểu tình. Lịch sử Việt nam chứng kiến rất nhiều cuộc biểu tình của những người dân yêu nước. Trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm, chúng ta có những cuộc biểu tình lớn, điển hình như biểu tình Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930, biểu tình ngày 19/8/1945 và rất nhiều cuộc biểu tình những năm chống Mỹ v.v...
Điều 69 Hiến pháp 1992 qui định: “Công dân […] có quyền […] biểu tình theo quy định của pháp luật.” Như vậy, theo pháp luật hiện hành, biểu tình là một quyền hợp hiến ở Việt Nam. Cụm từ „theo quy định của pháp luật“ có nghĩa là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật khi đã có hiệu lực, chứ không phải tuân theo những gì chưa có. Bởi thế cho nên đương nhiên công dân có quyền biểu tình ngay cả khi chưa có luật hay không có luật về biểu tình. 
Hiến pháp không có bất kì một qui định nào trao cho Chính phủ quyền ban hành Nghị định hay một Bộ trưởng nào đó ban hành Thông tư để hạn chế quyền công dân. Hơn nữa, vì Hiến pháp “là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.“ (Điều 146, Hiến pháp 1992), do vậy, tôi cho rằng việc viện dẫn bất kì văn bản dưới luật nào như Nghị định, Thông tư để ngăn cản quyền biểu tình ôn hòa của dân đều là vi phạm Hiến pháp.
Điều 26 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung Điều 69 nêu trên) qui định: Công dân […] được […] biểu tình theo quy định của pháp luật.” Dự thảo đã bỏ hai từ “có quyền” trong Điều 69 Hiến pháp 1992 và thay vào đó bằng chữ “được”. Cách qui định này có thể dễ dàng dẫn đến cách hiểu rằng: Biểu tình là do nhà nước ban phát (lưu ý từ “được”) và nếu như chưa có “quy định của pháp luật”, tức là nhà nước “chưa cho”, thì người dân không được biểu tình. Nếu hiểu như vậy, thì rõ ràng cách qui định trong dự thảo là không phù hợp, đi ngược với tư duy tiến bộ về nhân quyền và dân quyền trên thế giới hiện nay.
Thay vì qui định như trong dự thảo, tôi đề xuất Điều 26 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nên tách riêng các quyền, trong đó có quyền biểu tình, thành những Điều riêng. Hiến pháp Việt Nam nên qui định quyền biểu tình cụ thể như sau:“1. Công dân có quyền biểu tình ôn hòa và không vũ khí, không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không của chính quyền. 2. Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân được thực hiện quyền biểu tình. Mọi hành vi đe dọa, chia rẽ, gây cản trở hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp pháp sẽ bị xử lý hình sự hoặc xử phạt hành chính tùy theo tính chất, mức độ. 3. Quyền biểu tình của công dân chỉ có thể bị giới hạn bởi một đạo luật của Quốc hội. Việc giới hạn cũng không làm mất đi bản chất của quyền này.” Nếu qui định như vậy theo tôi sẽ có hai ưu điểm: Thứ nhất, điều khoản này xác định rõ công dân biểu tình không có nghĩa vụ phải xin phép, mà chỉ cần thông báo cho chính quyền. Đây là cách qui định phổ biến của các bản Hiến pháp trên thế giới hiện nay; Thứ hai, qui định người tham gia biểu tình không được sử dụng vũ khí hay công cụ có tính bạo lực sẽ làm rõ cơ sở đảm bảo cho một cuộc biểu tình ôn hòa. Tất cả những vấn đề cụ thể, có tính kĩ thuật khác như cần phải thông báo trước trong thời gian bao lâu, những dụng cụ nào được hiểu là vũ khí, trách nhiệm của người trưởng đoàn biểu tình, những người tham gia biểu tình thế nào, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền ra sao…nên được qui định ở trong một đạo luật do Quốc hội ban hành.
Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân từ phía công quyền phản ánh mức độ tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp.

Trên cơ sở hiến định quyền biểu tình như trên, Luật biểu tình trong tương lai nếu có nên tiếp tục làm rõ những vấn đề pháp lý căn bản sau:
Thứ nhất, cần làm rõ trách nhiệm của Trưởng đoàn tổ chức biểu tình. Khi thông báo về việc biểu tình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần khai báo rõ ai là Trưởng đoàn, nội dung, mục đích của biểu tình là gì. Tôi cho rằng nên qui định rõ: Trưởng đoàn biểu tình sẽ chịu trách nhiệm theo dõi diễn tiến của việc biểu tình, chịu trách nhiệm về việc biểu tình phải diễn ra một cách ôn hòa, không vũ khí, có quyền dừng hoặc chấm dứt biểu tình bất cứ lúc nào. Trong quá trình biểu tình, cả trưởng đoàn và cảnh sát có thể tước quyền biểu tình của bất cứ ai sử dụng vũ khí hay có hành động gây rối, vi phạm pháp luật hoặc không tuân theo chỉ đạo của trưởng đoàn. Việc sử dụng các biểu ngữ nội dung gì phải được thông báo trước cho cảnh sát khi tiến hành thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về việc biểu tình.
Thứ hai, làm rõ hàng loạt các khái niệm pháp lý căn bản về biểu tình, chẳng hạn như vấn đề “không vũ khí”, “nghĩa vụ thông báo”, “mục đích biểu tình” là như thế nào. Việc mang theo các dụng cụ như trống, kèn, đuốc, vợt đánh bóng… có được coi là “vũ khí” hay không? Cần phải thông báo trước về việc biểu tình với chính quyền trong thời gian bao lâu? Thế nào là có chung một mục đích trong một cuộc biểu tình? Chính quyền có thể cấm biểu tình khi cho rằng nội dung biểu tình là không phù hợp hoặc lo ngại rằng người biểu tình sẽ tham gia với số lượng quá lớn hoặc lo ngại rằng sẽ có một đoàn biểu tình khác chống đối lại không?...
Thứ ba, nên xác định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc đảm bảo cho việc biểu tình được diễn ra một cách an toàn, đúng luật, chẳng hạn như trách nhiệm phải tổ chức các phương tiện giao thông ra sao, rồi trong trường hợp nào thì cảnh sát có thể yêu cầu người không tuân thủ các qui định về luật biểu tình ra khỏi đoàn biểu tình, trường hợp nào thì có thể yêu cầu chấm dứt biểu tình v.v…
Thứ tư, cần qui định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với hành vi đe dọa, chia rẽ, gây trở ngại hoặc ngăn cản cuộc biểu tình hợp pháp bằng các hành động bạo lực. Chế tài này nên được áp dụng chung, cho bất kỳ ai, kể cả người thi hành công vụ nếu xâm phạm quyền tự do biểu tình hiến định của người dân.
Thứ năm, để hoạt động biểu tình được đi vào nề nếp, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, trong Luật biểu tình cũng nên qui định rõ hình thức biểu tình nào thì được chấp nhận? việc xếp hàng dài và ngồi án ngữ trước cửa ra vào một địa điểm nào đó có phải là hành vi biểu tình một cách ôn hòa hay không? Việc biểu tình ở bên ngoài trụ sở Quốc hội có bị ngăn cấm không? Người biểu tình có được mặc đồng phục, sử dụng cờ hoặc biểu tượng không? Nếu có, thì có hạn chế gì không?
------------
Thiết nghĩ, cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân từ phía công quyền phản ánh mức độ tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp. Trong khi cả thế giới đều tôn trọng, công nhận và đảm bảo thực hiện nó, thì cũng không có lý do gì để ta lại ngăn cấm hay hạn chế quyền cơ bản này. Thực chất, biểu tình không có gì đáng sợ, quan trọng là cách tư duy về quyền này như thế nào, tiếp đó là kế hoạch, cách thức quản lý, tổ chức biểu tình ra sao. Chính quyền nên tận dụng hoạt động biểu tình, nên coi đó như một cầu nối, một kênh đối thoại quan trọng giữa chính quyền với nhân dân,từ đó một mặt kiểm soát và đưa hoạt động này trở nên có nề nếp, trật tự, mặt khác thông qua việc lắng nghe dân, cân nhắc, điều chỉnh và hoạch định các chính sách liên quan sao cho hợp với lòng dân hơn.