Wednesday, February 1, 2012

Chất vấn và kỹ năng chất vấn



 1. Chất vấn là gì?
Chất vấn là công cụ giám sát mạnh nhất của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, vì nó quy trách nhiệm chính trị. Đối với cá nhân đại biểu chất vấn là cách thức quan trọng để giám sát hoạt động của các quan chức nhà nước, trong đó có các quan chức Chính phủ. Trong mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Thậm chí ở các nước, chất vấn có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản đối hoạt động của Chính phủ, cơ sở để ra nghị quyết bất tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của Chính phủ. “Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do để đưa ra nghị quyết, qua đó các viện phản ánh quan điểm của mình”. (Điều 111 Hiến pháp Tây Ban Nha).
Ở nước ta, số lượng câu hỏi chất vấn các thành viên Chính phủ ngày càng lớn. Kết quả thống kê cho thấy, trước mỗi kỳ họp, các thành viên Chính phủ luôn nhận được hàng trăm câu hỏi chất vấn với số lượng ngày càng tăng theo mỗi kỳ họp.
Theo kết quả của một cuộc điều tra dư luận, chỉ có 20% ĐBQH, 32,9% đại diện tổ chức xã hội, 11,1% chuyên gia đánh giá là “tốt” về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Trong khi đó quá nửa chuyên gia (55,6%) cho rằng hoạt động này “chưa đạt yêu cầu”. Tỷ lệ đại diện tổ chức xã hội và ĐBQH được phỏng vấn cho rằng hoạt động này “chưa đạt yêu cầu” cũng khá đáng kể (tỷ lệ lần lượt là 22,6% và 30%).
2. Mục đích của chất vấn là gì?
Chất vấn là để làm rõ trách nhiệm. Trách nhiệm thì có nhiều loại và được xác định thông qua những cách thức và thủ tục khác nhau. Trách nhiệm kỷ luật được xác định thông qua hoạt động kiểm tra, trách nhiệm hành chính thông qua hoạt động thanh tra, trách nhiệm hình sự thông qua hoạt động điều tra. Chất vấn, như một hình thức giám sát của Quốc hội, không nhằm xác định bất cứ trách nhiệm nào như đã nói ở trên, mà để làm rõ trách nhiệm chính trị.
Nếu chính sách đầu tư là dàn tri, nếu bệnh thành tích là căn bệnh trầm kha của ngành giáo dục, nếu năng lực điều chỉnh giá thuốc là bất cập đối với ngành y tế thì chế độ trách nhiệm ở đây trước hết là trách nhiệm chính trị. Và hoạt động chất vấn của Quốc hội được sinh ra để làm rõ loại trách nhiệm này.
Trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý là hai loại trách nhiệm khác nhau. Ví dụ, chúng ta không thể áp dụng điều luật về tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cho quyết sách liên quan đến ngành mía đường. Đơn giản vì hậu quả nghiêm trọng thì có, nhưng sự thiếu tinh thần trách nhiệm thì không. Những quyết sách rất có tinh thần trách nhiệm thì vẫn có thể thiếu một tầm nhìn. Mà thiếu tầm nhìn, người ta chỉ có thể chịu trách nhiệm về chính trị. Như vậy, trách nhiệm chính trị là trách nhiệm về chính sách, không phải trách nhiệm về hành vi. Hoạt động chất vấn vì vậy sẽ lạc đề nên tập trung vào các vụ việc cụ thể mà không làm rõ được các vấn đề ở tầm chính sách. Ngoài ra, một chính sách được cải thiện, lợi ích sẽ đến với hàng triệu người. Một vụ việc được gii quyết, lợi ích có thể đến được với một hoặc vài người. Giải quyết được công việc cho một người cũng tốt, thế nhưng công việc của muôn người thì sao? Nếu chất vấn vào các vụ việc cụ thể, Quốc hội không bao giờ có đủ thời gian để xem xét những vấn đề to lớn của đất nước.
Một mục đích khác của chất vấn là kiểm tra năng lực của quan chức trong nắm bắt và điều chỉnh lĩnh vực được phân công. Để thực hiện mục đích này, Quốc hội nhiều nước, nhất là Quốc hội của các nước theo mô hình của Anh thường không cho biết trước các câu hỏi chất vấn. Một vị Bộ trưởng nắm vững công việc sẽ trả lời lưu loát các câu hỏi đặt ra, còn nếu ngược lại - uy tín sẽ bị giảm sút.
Chất vấn, xét về một khía cạnh nào đó, là sự cảnh báo của Quốc hội về một vấn đề hay một tình trạng cần được lưu ý giải quyết. (Ví dụ như tình trạng các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng những người đứng đầu doanh nghiệp này lại giàu lên nhanh chóng; việc tinh giảm biên chế và gánh nặng đối với xã hội...). Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự đoán và trách nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của người quản lý.
Chất vấn cũng có mục đích cung cấp thông tin và tạo cơ hội cho Quốc hội đánh giá, phê bình Chính phủ vì làm hay không làm điều gì đó. Bằng cách này, các đại biểu có thể buộc các Bộ trưởng chia sẻ thông tin.
Chất vấn thu hút sự chú ý rộng rãi của công luận về vấn đề nào đó, do đó tạo sức ép lên Chính phủ để nó được giải quyết nhanh hơn. Hoạt động chất vấn của Quốc hội, nhất là trong kỳ họp của Quốc hội ở nước ta được coi là đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp thu hút được sự chú ý của đông đảo quần chúng nhân dân, của công luận về các vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội cần được giải quyết. Ví dụ vấn đề giáo dục, vấn đề dịch bệnh, vấn đề trật tự an toàn giao thông, vấn đề thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, vấn đề tham nhũng, vấn đề xét xử oan sai v..v.. Trong điều kiện bùng nổ về thông tin như hiện nay, các vấn đề được đưa ra chất vấn tại diễn đàn của Quốc hội đều được đăng tải trên báo chí và được truyền hình trực tiếp nên chất vấn tạo điều kiện cho nhân dân giám sát cơ quan dân cử, giám sát đại biểu Quốc hội và giám sát các cán bộ cao cấp trong bộ máy nhà nước.
3. Làm rõ trách nhiệm khi chất vấn như thế nào?
Khi các vị đại biểu Quốc hội hỏi một quan chức nào đó theo thủ tục chất vấn thì thông tin, số liệu không phải là vấn đề chính. Vấn đề chính ở đây là: Người bị chất vấn có biết về việc đó không? Tại sao lại để nó xảy ra? Hướng xử lý như thế nào? Cần phải rút kinh nghiệm ở đâu? Chế độ trách nhiệm ra sao?
Có thể hình dung đường đi nước bước của việc áp đặt trách nhiệm như sau: Đầu tiên là xác định phạm vi trách nhiệm của người trả lời chất vấn; tiếp theo, người trả lời cần phải giải trình trước Quốc hội những vấn đề được hỏi đến, nếu Quốc hội thỏa mãn, hài lòng với sự giải trình đó, coi như đã “trả bài” xong. Nếu không, bước tiếp theo sẽ là quy trách nhiệm - có thể dưới hình thức một nghị quyết (mà bỏ phiếu tín nhiệm chỉ là một trong những hình thức quy trách nhiệm).
Khi câu hỏi đã khoanh vùng trách nhiệm của từng người trả lời chất vấn, thì người chất vấn mong chờ ở các vị Bộ trưởng năng lực giải trình, thể hiện mức độ nắm bắt vấn đề, cũng như giải pháp và thời hạn khắc phục vấn đề. Thế nhưng có nhiều câu trả lời chưa làm các đại biểu hài lòng. Khi chất vấn về nguyên nhân chậm trễ của việc đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất và đề nghị Bộ trưởng làm rõ sự nhất quán trong chủ trương đầu tư cũng như các vấn đề tồn tại lớn mà Chính phủ cần xử lý, một số đại biểu Quốc hội cho rằng, họ chỉ nhận được câu trả lời với nội dung “kể lại” hiện nay dự án đã đến đâu, chứ không được giải trình rõ các hạng mục chậm cụ thể là bao nhiêu so với kế hoạch chính thức.
Không ai có thể chịu trách nhiệm về mọi việc. Ranh giới của quyền hạn đồng thời cũng là ranh giới của trách nhiệm. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo không thể chịu trách nhiệm về việc đa số người Việt chỉ thích học để làm thầy hơn là để làm thợ. Tuy nhiên, phản ứng chậm chạp và thiếu mạch lạc của hệ thống giáo dục và đào tạo trước nhu cầu của thị trường, “sự gắn kết giữa kết quả đào tạo với việc sử dụng còn hạn chế” lại là một câu chuyện khác.
Cũng như vậy, Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội không thể chịu trách nhiệm trực tiếp về các trường dạy nghề, nếu như chúng đã được phân cấp về cho các địa phương; về “tình trạng chảy máu chất xám” từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, thậm chí từ các cơ quan nhà nước ra các công ty tư nhân, khi cơ chế thị trường và quyền tự do lao động đang được xác lập ở đất nước ta. Tuy nhiên, xây dựng một hệ thống chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm sự hài hoà của các mối quan hệ lao động mới phát sinh lại khó có thể là trách nhiệm của ai khác.
Rủi ro chất vấn “lạc đề” của các vị đại biểu Quốc hội sẽ rất cao, nếu như khái niệm “quản lý ngành” không được làm rõ trong khoa học quản lý của chúng ta. Tất cả các vị Bộ trưởng đều phải chịu trách nhiệm quản lý ngành. Tuy nhiên, “quản lý ngành” là một khái niệm mang nặng tính bao cấp. Nếu chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường, thì có rất nhiều việc các vị Bộ trưởng không thể làm thay các lực lượng của thị trường (và cũng chẳng bao giờ có thể làm tốt hơn). Vì vậy, buộc các vị Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi chuyện xảy ra trong ngành chưa chắc đã là một xu hướng lành mạnh.
4. Tại sao phải chất vấn nhiều lần về cùng một vấn đề?
Thực tế, 3 ngày chất vấn tại Hội trường cho thấy vẫn còn những vấn đề đã nêu tại các lần chất vấn trước - những “câu chuyện cũ” như: tai nạn giao thông, giáo dục; tham nhũng… Vì sao vẫn còn những câu hỏi cũ? Có đại biểu Quốc hội cho biết: “Sở dĩ các đại biểu vẫn hỏi lại câu hỏi cũ vì tình hình của vấn đề cũ chưa chuyển biến là bao”.
Bởi vậy, các vị đại biểu Quốc hội có thể chất vấn nhiều lần về một vấn đề, cho đến khi vấn đề đó được xử lý mới chấm dứt. Một vài quan chức có thể không hài lòng và cho rằng sự việc nào đó đã được “hỏi” và đã được “trả lời”, nên không cần phải hỏi lại. Nhưng rõ ràng biết rồi không có nghĩa là đã giải quyết xong. Điều quan trọng là phải theo vấn đề đến cùng để làm rõ chính sách thì các vị đại biểu Quốc hội lại chưa làm được. Thực ra, để giải quyết các vấn đề của đất nước, các vị Bộ trưởng phải đề ra được chính sách phù hợp. Làm rõ được chính sách là cách tốt nhất để làm rõ trách nhiệm.
 5. Hậu quả của chất vấn là gì?
Ở một số nước, việc chất vấn có thể dẫn đến việc Quốc hội biểu quyết thông qua kiến nghị (motion) đưa ra thảo luận tại Quốc hội về trách nhiệm của một quan chức nào đó. Và cao hơn nữa, một số nước quy định khi kiến nghị thu được một số lượng chữ ký nhất định thì vị quan chức này phải giải trình trước Quốc hội và Quốc hội có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với một chính sách của Chính phủ. Ví dụ ở Pháp có quy định: nếu một kiến nghị bất tín nhiệm Chính phủ thu nhận được chữ ký của ít nhất 10 nghị sĩ thì vấn đề đó sẽ được đưa ra thảo luận. Một số nước khác quy định cần có khoảng 20 hoặc 50 chữ ký... Đây là hậu quả chính trị của chất vấn.
Chất vấn cũng mang lại hậu quả xã hội to lớn, thường là có tác động rộng rãi hơn hậu quả pháp lý. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác, việc truyền hình hay truyền thanh trực tiếp và các bình luận của báo chí về những buổi trả lời chất vấn của các quan chức Chính phủ đã tạo nên một luồng công luận mạnh mẽ và gây áp lực xã hội to lớn. Vì vậy, ở một số nước đa số Bộ trưởng phải từ chức do áp lực của công luận chứ không nhất thiết là áp lực từ phía Quốc hội.
Như đã thấy, chế tài cao nhất mà hoạt động chất vấn có thể dẫn đến là bỏ phiếu tín nhiệm ít khi được áp dụng. Do đó, tác dụng lớn nhất của chất vấn là tạo nên một sức ép áp đặt trách nhiệm lên những người trả lời chất vấn. Chất vấn là nhằm để các Bộ trưởng luôn cảm thấy áp lực đó mà làm việc tốt hơn.
 Bảng 1: Chất vấn tại kỳ họp 
Bước 1Thu thập và phân tích thông tin
Bước 2Lựa chọn vấn đề chất vấn
Bước 3Gửi chất vấn đến đoàn thư ký Quốc hội
Bước 4Theo dõi việc phân bổ lịch chất vấn tại phiên họp
Bước 5Trình bày chất vấn
Bước 6Đưa câu hỏi bổ sung
Bước 7Đề nghị thảo luận về vấn đề được đưa ra chất vấn
Bước 8Kiến nghị
Bước 9Theo dõi việc thực hiện các vấn đề chất vấn
  (Biên soạn theo “Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội”,
Văn phòng Quốc hội, 2004)
 Nguồn: ttbd.gov.vn--TCNCLP

Bàn về kỹ thuật Lập hiến



Kỹ thuật Lập hiến có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cũng như sửa đổi Hiến pháp. Nó là nhân tố làm cho một bản văn Hiến pháp được thể hiện một cách khoa học, chặt chẽ, logíc; chẳng những có ý nghĩa góp phần nâng cao chất lượng của Hiến pháp mà còn bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi Hiến pháp sau khi ban hành. Nhân dịp sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng tôi xin có một số ý kiến bàn về kỹ thuật Lập hiến.
Thế nào là kỹ thuật lập hiến?

Lịch sử Lập hiến của nhân loại cho đến nay chủ yếu là lịch sử của các bản Hiến pháp được thể hiện thành văn. Chỉ trừ một số rất ít nước như Anh, Israel, Canada, Hiến pháp không thể hiện trong một văn bản gọi là Hiến pháp. Cách thức thể hiện các quy định thành văn trong một bản Hiến pháp có vai trò trực tiếp đến chất lượng và thực thi Hiến pháp sau khi ban hành.

Thực tiễn Lập hiến của nước ta cũng như các nước trên thế giới chỉ ra rằng: các Hiến pháp thành văn có chất lượng tốt và có khả năng thực thi trong một thời gian tương đối dài thường là các Hiến pháp có kỹ thuật Lập hiến cao trong việc thể hiện nội dung của Hiến pháp. Bởi kỹ thuật Lập hiến là cách thể hiện cơ cấu (cấu trúc), xác định phạm vi những vấn đề cần được điều chỉnh và cách diễn đạt rõ ràng minh bạch, đủ khái quát và cụ thể của một bản Hiến pháp.

Kỹ thuật lập hiến về cơ bản bao gồm 3 yếu tố.

Cơ cấu một bản Hiến pháp như thế nào? Gồm lời nói đầu, các chương, mục, điều, khoản được kết cấu ra sao?

Phạm vi những vấn đề cần phải thể hiện trong Hiến pháp như thế nào?  Những vấn đề nào nhất thiết cần phải được quy định trong Hiến pháp và những vấn đề gì để cho Luật điều chỉnh?

Cách diễn đạt nội dung của Hiến pháp sao cho rõ ràng, minh bạch nhưng lại đủ bao quát và cụ thể.

Những vấn đề cần quan tâm về kỹ thuật lập hiến trong sửa đổi Hiến pháp lần này

Từ quan niệm về kỹ thuật lập hiến nói trên, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, theo chúng tôi, cần phải đặc biệt quan tâm đến các vấn đề sau đây.

Một là, xác định những vấn đề gì cần phải quy định trong Hiến pháp? Theo quan niệm Lập hiến truyền thống xuất phát từ lý thuyết chủ quyền nhân dân, Hiến pháp được xem là một khế ước xã hội giữa những người dân với nhau trong việc giao quyền và ủy quyền cho Nhà nước. Vì thế, Hiến pháp tập trung quy định về chính thể (nhà nước đó theo chính thể thế nào? Quân chủ hay dân chủ? Dân chủ đại nghị hay dân chủ tổng thống? Quyền lực nhà nước thuộc về ai? Nhà nước được tổ chức theo những nguyên tắc cơ bản nào? Chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ra sao? Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (công dân có quyền và nghĩa vụ cơ bản gì trong mối quan hệ với nhà nước) và tổ chức quyền lực nhà nước (nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp và tư pháp những thẩm quyền gì?). Hiến pháp ngày nay, nhất là Hiến pháp của các nước XHCN trước đây như Hiến pháp Liên Xô (1977); Hiến pháp Cộng hòa dân chủ Đức (1978); Hiến pháp Bungari (1979); Hiến pháp năm 1980 của nước ta lại có xu hướng mở rộng phạm vi các quy định của Hiến pháp. Ngoài những nội dung cơ bản của Hiến pháp truyền thống, còn mở rộng phạm vi, quy định cả các vấn đề về chế độ kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng và đối ngoại...

Tuy nhiên, đưa những gì vào Hiến pháp, theo chúng tôi, trước hết phải xuất phát từ bản chất và vai trò của Hiến pháp. Nếu thừa nhận Hiến pháp về phương diện chính trị là một văn bản để xác định chế độ chính trị của Quốc gia thì chỉ nên đưa vào Hiến pháp những nguyên tắc thiết yếu, ổn định trong một thời gian dài về tổ chức quyền lực thuộc về nhân dân, “Ấn định hình thức nhà nước của quốc gia, ấn định các cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của các cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ảnh tổ chức chính trị quốc gia”(1).

Về phương diện xã hội, nếu xem Hiến pháp là phương tiện ghi nhận những thành quả đạt được của dân tộc, của đất nước và của nhân loại đương thời thì Hiến pháp phải chứa đựng những giá trị xã hội cao quý nhất về dân chủ, nhân quyền, nhân đạo, công bằng, bình đẳng, bác ái văn minh của mỗi quốc gia; về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, của công dân. Về phương diện pháp lý, nếu thừa nhận Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia thì Hiến pháp chỉ điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia. Đó thường là ba nhóm quan hệ cơ bản sau đây: Nhóm quan hệ xã hội cơ bản về chế độ chính trị (chính thể); Nhóm quan hệ xã hội cơ bản giữa nhà nước và cá nhân; Nhóm quan hệ xã hội về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hiến pháp chỉ tập trung điều chỉnh ba nhóm quan hệ xã hội nói trên với tư cách là các nguyên tắc, các vấn đề có tính nền tảng, cốt tử của một quốc gia; không đưa vào Hiến pháp những nội dung không có tầm quan trọng cao, hoặc ít xảy ra trong thực tiễn. Cần có sự phân sân giữa Hiến pháp và các đạo luật, biết nhường cho Luật những quy định chi tiết, cụ thể.

Cùng với những điều nói trên, việc đưa vào Hiến pháp những gì còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước và tình hình quốc tế đang diễn ra. Vì thế trong các bản Hiến pháp đương đại của các quốc gia đều có sự sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Ví dụ trong các Hiến pháp cổ điển được ban hành trong thế kỷ XVIII chỉ dựa vào Hiến pháp các quyền con người với tư cách là các quyền tự nhiên vốn có của con người chủ yếu là các quyền chính trị và tự do cá nhân với tư cách là những giới hạn mà Nhà nước không được đụng tới. Ngày nay, các Hiến pháp có khuynh hướng mở rộng các quyền cơ bản của con người về kinh tế - văn hóa - xã hội và môi trường mà Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm và thúc đẩy phát triển. Hoặc trước đây trong các Hiến pháp cổ điển không có cơ chế bảo hiến thì thiết chế tài phán Hiến pháp ra đời khá phổ biến trong Hiến pháp thế kỷ XX. Ngày nay trước nguy cơ của thảm họa biến đổi khí hậu, vấn đề môi trường đã trở thành vấn đề cần được quy định trong Hiến pháp.

Với suy nghĩ nói trên, lần sửa đổi Hiến pháp này cần có sự quan tâm rà soát các quy định của Hiến pháp hiện hành để có thể thêm hoặc bớt những vấn đề cần phải đưa vào Hiến pháp.

Hai là, quan tâm nhiều hơn đến cách thức thể hiện và diễn đạt trong Hiến pháp.

Kinh nghiệm Lập hiến của nhân loại chỉ ra rằng, cần có sự kết hợp giữa cách thể hiện bao quát mang tính khái quát cao với cách thể hiện đủ cụ thể sao cho Hiến pháp phát huy hiệu lực trong một thời gian tương đối dài, vừa có quy định điều chỉnh trực tiếp vừa có quy định định hướng mang tính nguyên tắc. Không có một công thức chung cho sự kết hợp này. Tùy thuộc vào tính chất của các vấn đề được đưa vào Hiến pháp mà lựa chọn cách thể hiện một cách đủ cụ thể. Đồng thời phải diễn đạt một cách rõ ràng, minh bạch theo ngôn ngữ pháp lý mà không phải là ngôn ngữ chính trị hay văn chương.

Ví dụ trong lời nói đầu cần khẳng định một cách rõ ràng, mạnh mẽ nhân dân Việt Nam chủ thể ban hành Hiến pháp. Trong chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cần được thể hiện theo kỹ thuật của ngôn ngữ pháp lý với tư cách là các quyền của chính họ chứ không phải là của Nhà nước ban phát tặng cho. Phải xác định cụ thể, rõ ràng những nội dung của quyền, phương tiện để thực hiện quyền và những giới hạn của Nhà nước. Đối với các chương về tổ chức bộ máy cần phải cụ thể hóa một cách minh bạch nguyên tắc phân công các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (ở điều 2) bằng cách chỉ rõ cơ quan nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là hành pháp và cơ quan nào là tư pháp. Trên cơ sở đó sử dụng kỹ thuật cụ thể hóa để xác lập các quy tắc về tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước. Đối với các chương về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ rất khó đưa ra được những chỉ dẫn cụ thể cho hành vi vì những vấn đề này luôn luôn vận động biến đổi, do vậy chỉ là những quy định mang tính định hướng với kỹ thuật thể hiện bao quát, khái quát cao mà không nên thể hiện dưới dạng cụ thể, chi tiết.

Ba là, chú ý xem xét đến việc sắp xếp cấu trúc của các chương trong bản Hiến pháp hiện hành.

Trước hết cần nghiên cứu, bổ sung thêm vào chương hiệu lực một số điều quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp và đặt tên chương là Hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp hiện hành của nước ta thiếu các quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Có người đề nghị ban hành một đạo luật về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Đây là một đề nghị không đúng. Bởi vì Hiến pháp có hiệu lực cao hơn Luật, làm sao Luật lại có thể quy định được quy trình sửa đổi Hiến pháp. Chỉ có Hiến pháp mới có quyền quy định quy trình sửa đổi của mình như thế nào? Quy trình lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp bắt nguồn từ chủ quyền nhân dân phải được quy định trong Hiến pháp. Trong chương này cần phải quy định các vấn đề sau đây: Ai có quyền đưa sáng kiến sửa đổi Hiến pháp; Thủ tục soạn thảo, thảo luận, lấy ý kiến nhân dân, phê chuẩn Hiến pháp như thế nào? Giới hạn sửa đổi Hiến pháp (những điều nào không được sửa đổi) và thủ tục công bố.

Về cấu trúc của Hiến pháp nên chăng trong lần sửa đổi này cần có sự đổi mới. Những nội dung cấu thành bản chất của Hiến pháp theo quan niệm truyền thống cần được đưa lên trước. Những nội dung có tính chất mở rộng phạm vi của Hiến pháp nên đưa ra sau. Cùng với điều đó cần đặt lại tên gọi các chương cho chuẩn xác và thống nhất với nội dung của toàn bộ Hiến pháp. Theo đó, cấu trúc của Hiến pháp sửa đổi, nên chăng theo logíc sau: Lời nói đầu; chương I: Chính thể; chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chương III: Cơ quan Lập pháp; chương IV: Nguyên thủ quốc gia; chương V: Cơ quan hành pháp; chương VI: Cơ quan tư pháp; chương VII: Chính quyền địa phương; chương VIII: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ; an ninh quốc phòng; chương IX: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô và ngày quốc khánh; chương X: Hiệu lực Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp.
____________

1. Nguyễn Văn Bông: Luật Hiến pháp và chính trị học Sài Gòn 1970 trang 53.
(Theo http://daibieunhandan.vn)

Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các hiến pháp Việt Nam

Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước qua các hiến pháp Việt Nam
1. Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946 
Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đứng lên giành độc lập, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, về mặt lịch sử, nhân dân Việt Nam chính là người đã giành lại quyền lực, sáng tạo nên lịch sử, quyết định số phận, vận mệnh của mình. Từ đó, lịch sử nước ta hình thành và ghi nhận một cách chính thống nhận thức luận và thực tiễn: nhân dân là cội nguồn của quyền lực, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân.
Hiến pháp năm 1946 là bản hiến văn ghi nhận thành quả cách mạng Tháng Tám năm 1945 của toàn thể nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử cách mạng của mình nên nhân dân là nguồn nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
 Thuật ngữ “quyền bính” trong bối cảnh điều này của Hiến pháp được hiểu với hai nghĩa: quyền bính là quyền lực, quyền bính là quyền tự quyết của nhân dân về vận mệnh, số phận của mình; còn thuật ngữ nhân dân được hiểu theo cách đầy đủ nhất của từ này bao gồm tất cả mọi công dân, không phân biệt dân tộc, giới tính, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo. Quan điểm Hiến pháp này là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng đời sống nhà nước và đời sống xã hội “xây nền độc lập trên nền nhân dân”. Với logic “mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân” nên trong thành phần Quốc hội đầu tiên của nước ta có đầy đủ mọi thành phần giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị. Chính quan điểm này đã tạo nên sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sau này.
Như vậy, ngay từ đây đã chính thức hình thành, xác lập một quan điểm mới về quyền lực nhân dân trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý Việt Nam.
Khoa học chính trị - pháp lý thường quan niệm: quyền lực nhà nước là một dạng, một loại quyền lực chính trị; quyền lực nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị. Quan niệm này thực ra mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò, vị trí của quyền lực nhà nước trong cơ cấu quyền lực chính trị trong một quốc gia, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị, mà chưa lý giải được cội nguồn của quyền lực nhà nước - bắt nguồn từ quyền lực nhân dân. Trong điều kiện dân chủ và pháp quyền, nhân dân là người tổ chức nên nhà nước của mình, do đó, nhà nước suy cho cùng chỉ là một thể chế của cộng đồng xã hội, của toàn xã hội. Chính vì vậy, quyền lực của nhà nước - quyền lực của thể chế cộng đồng xã hội - là quyền lực phái sinh, bắt nguồn từ quyền lực nhân dân. Quyền lực nhà nước không phải của bản thân thể chế nhà nước, mà thuộc về cộng đồng xã hội, quốc gia dân tộc đã tổ chức nên nhà nước.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực. Để thực hiện quyền lực đó, nhân dân đã uỷ quyền, trao một phần quyền lực của mình cho nhà nước thực hiện thông qua các thể chế nhà nước. Nhưng điều này không đồng nhất quyền lực nhân dân với quyền lực nhà nước. Nhân dân cũng không bao giờ trao toàn bộ quyền lực của mình cho nhà nước, vẫn giữ lại những quyền quyết định về những vấn đề trọng đại của quốc gia, dân tộc. Điều 21 Hiến pháp 1946 quy định “Nhân dân phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ vận mệnh quốc gia theo Điều 32 và 70”. Theo Điều 70 Hiến pháp 1946, việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo cách thức: do hai phần ba tổng số nghị viện yêu cầu. Để sửa đổi Hiến pháp, Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi. Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải được đưa ra toàn dân phúc quyết. Như vậy, trong mối quan hệ giữa nhân dân và Nghị viện nhân dân thì quyền lực nhân dân cao hơn quyền lực Nghị viện và nhân dân là người quyết định cuối cùng về Hiến pháp của mình, không một cơ quan nào có quyền đó. Chính điều này quyết định tính tối cao của Hiến pháp và bảo đảm cho sự ổn định, trường tồn của Hiến pháp. Sự ổn định, trường tồn của Hiến pháp là sự bảo đảm ổn định hướng đi của quốc gia, dân tộc. Điều 32 Hiến pháp quy định: Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định. Hiến pháp tuy không liệt kê những vấn đề nào là vấn đề hệ trọng của đất nước, nhưng đối chiếu với những quy định của Hiến pháp sau này và theo thông lệ các quốc gia trên thế giới có thể nhận thấy, những vấn đề hệ trọng của đất nước như: quyết định chiến tranh và hòa bình; quyết định sự thay đổi, cho thuê lãnh thổ quốc gia, hay việc gia nhập liên bang.
Tất cả các quy định này của Hiến pháp đã thể hiện sự phân công, phối hợp giữa quyền lực nhân dân với tư cách là cả cộng đồng quốc gia, dân tộc, bao gồm tất cả các dân tộc, giai cấp, tầng lớp cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam với Nhà nước - một thể chế do nhân dân thành lập nên, đồng thời thể hiện quan điểm về sự kiểm soát của quyền lực nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Quyết định cuối cùng trong trường hợp nói trên thuộc vào quyền lực nhân dân.
Về mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân có thể biểu hiện như sau:
a)  Quyền lực nhân dân là cái toàn thể tối cao.
b) Quyền lực nhà nước - một bộ phận của quyền lực nhân dân do nhân dân trao cho Nhà nước - là một thể chế do cộng đồng thực hiện. Ngoài việc trao quyền lực cho Nhà nước, nhân dân còn trao quyền lực của mình cho các thể chế xã hội khác (các thể chế xã hội công dân).
c) Nhân dân giữ lại một phần quyền lực của mình để thực hiện, không trao cho bất cứ một thể chế cộng đồng nào, cụ thể là quyền phúc quyết, quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
2. Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1959
Trên cơ sở quan điểm quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước đã được thiết lập trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 tiếp tục khẳng định và làm rõ quan điểm nguồn gốc quyền lực nhà nước bắt nguồn từ quyền lực nhân dân. Với logic mang tính nhận thức luận rằng quyền lực thuộc về nhân dân thì nhân dân là người tổ chức nên Nhà nước của mình, do đó những thể chế do nhân dân trực tiếp thiết lập nên là thể chế thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, Điều 4 Hiến pháp 1959 quy định: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quyền lực trong quy phạm này thực chất là nói về chính quyền, nói về quyền lực nhà nước, chứ không phải quyền lực của nhân dân theo đúng nghĩa của nó vì trong xã hội còn tồn tại nhiều thiết chế xã hội dân sự khác. Quyền lực của nhân dân không chỉ được thực hiện qua hoạt động của Nhà nước, mà còn qua các tổ chức khác, với các hình thức khác nhau. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: “nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”1.
Như vậy, quyền lực nhà nước thực chất là quyền lực nhân dân, được trao cho thể chế nhà nước thực hiện, còn Quốc hội và HĐND là những thể chế đại diện của nhân dân nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân bằng cơ chế pháp lý, được nhân dân uỷ quyền để thực hiện quyền lực nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc thực hiện quyền lực đó. Một điều đáng lưu ý là thuật ngữ “cơ quan quyền lực nhà nước” bắt đầu được sử dụng chính thức trong Hiến pháp năm 1959. Điều 43 ghi: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” và Điều 80 “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Trong Hiến pháp, thuật ngữ cơ quan quyền lực nhà nước chỉ được sử dụng để chỉ những cơ quan này. Điều này không có nghĩa là những cơ quan khác của Nhà nước không có quyền lực nhà nước. Các cơ quan khác của Nhà nước đều do các cơ quan quyền lực nhà nước thành lập nên và trao cho nó những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Trao cho những nhiệm vụ quyền hạn nhất định là để thực hiện quyền lực nhà nước chứ không phải trao quyền lực nhà nước, do đó khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, các cơ quan nhà nước khác đều nhân danh quyền lực nhà nước, nhân danh quyền lực chứ không phải bản thân quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nếu tiếp cận từ góc độ chính trị và xã hội học, do đó quyền lực nhà nước sẽ không bao giờ bị phân chia thành các bộ phận cho từng cơ quan nhà nước, mà mỗi cơ quan nhà nước, trừ cơ quan quyền lực nhà nước, đều chỉ có nhiệm vụ, quyền hạn để thực gốc của quyền lực. Chính từ cái cội nguồn sâu xa ấy mà Hiến pháp ghi nhận: “Tất cả  quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Quy phạm Hiến pháp này một mặt đã khẳng định nguồn gốc của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực, mặt khác khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước - quyền lực nhân dân. Sự ghi nhận này của Hiến pháp 1946 về quyền lực nhân dân là mốc lịch sử quan trọng về cách tổ chức quyền lực ở Việt Nam, chấm dứt thời kỳ dài trong lịch sử đất nước “quyền lực tập trung trong tay nhà vua, vua là con trời, vua là tất cả” chuyển sang thời kỳ “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu hiện quyền lực nhà nước thống nhất đó. Để thiết lập nên bộ máy nhà nước, các cơ quan khác của Nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước thiết lập nên, do đó, quyền lực của các cơ quan khác của Nhà nước đều là  quyền lực “phái sinh”.
So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 thể hiện một sự thụt lùi trong quy định về sự phân công giữa quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước - thể chế do nhân dân thiết lập nên - vì những quy định trong Hiến pháp 1946 về những vấn đề sau khi được Quốc hội quyết định phải được nhân dân phúc quyết không còn được giữ lại trong Hiến pháp 1959.
Về tổ chức để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến pháp 1959 cũng có những thay đổi so với Hiến pháp 1946, thể hiện ở những quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, “Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra”. Chủ tịch nước tách ra thành một định chế độc lập, không còn là người đứng đầu nhánh quyền lực hành pháp như quy định trong Hiến pháp 1946. Theo quy định của Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước có những quyền mang tính biểu tượng nhà nước như những người đứng đầu nhà nước của các quốc gia khác “thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về mặt đối nội và đối ngoại” và những quyền khác quy định tại các Điều 63, 64. Quyền hạn thực quyền của Chủ tịch nước gồm quyền “thống lĩnh lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng”, quyền “triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt”. Còn Hội đồng Chính phủ được xác định là “Cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Như vậy, bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 đã hình thành cơ chế tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, về mặt hành chính thì Hội đồng Chính phủ chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Quyền xét xử do Toà án nhân dân (TAND) tối cao, các TAND địa phương và Tòa án đặc biệt do Quốc hội thành lập để thực hiện. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân do Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao thực hiện.
Trong Hiến pháp 1959, sự phân công giữa quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước  không được thể hiện, phân định rõ như trong Hiến pháp năm 1946, dường như hai dạng quyền lực này bị hòa vào nhau, quyền lực nhân dân cũng là quyền lực nhà nước, biến thành quyền lực nhà nước. Sự phân biệt này chỉ nhận thấy một cách gián tiếp khi quy định UBTVQH có quyền “quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân”, nhưng về những vấn đề gì và khi nào cần phải trưng cầu ý dân và trưng cầu ý dân ở quy mô nào thì không được nhắc đến hay quy định trong Hiến pháp. Còn quyền giám sát của nhân dân đối với Nhà nước chỉ được thể hiện qua quyền khiếu nại và tố cáo của công dân về những hành vi phạm pháp của nhân viên nhà nước. Nhưng Hiến pháp đã hình thành cơ chế giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Sự giám sát này vẫn là cơ chế cơ quan nhà nước giám sát cơ quan nhà nước. Điều 50 Hiến pháp quy định, Quốc hội có quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, UBTVQH giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của TAND tối cao và VKSND tối cao. Tuy vậy, quyền giám sát của HĐND chưa được xác lập trong Hiến pháp. Nhưng cho dù có được xác lập thì đây vẫn là sự giám sát của cơ quan nhà nước đối với cơ quan nhà nước. Trong khoa học pháp lý nước ta thường giải thích sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một hình thức giám sát của nhân dân - giám sát gián tiếp. Cơ chế giám sát của nhân dân với tư cách là người tổ chức nên Nhà nước vẫn chưa được thiết lập trong Hiến pháp.
Xuất phát từ quy định trong Hiến pháp, quyền lập pháp duy nhất chỉ thuộc về Quốc hội và theo cơ chế uỷ quyền lập pháp, Hiến pháp trao cho UBTVQH ra pháp lệnh, do đó quyền lực hành pháp được triển khai thực hiện ở các đơn vị hành chính - lãnh thổ thông qua thể chế chính quyền địa phương gồm HĐND và Uỷ ban hành chính các cấp. HĐND thực hiện quyền hành pháp trên lãnh thổ địa phương thông qua quyền “bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật của Nhà nước ở địa phương; đặt kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hóa và những sự nghiệp công cộng ở địa phương, bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc”, quyền “Căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên ra những nghị quyết thi hành ở địa phương” và một số quyền khác (các Điều 82, 83, 84, 85, 86 Hiến pháp 1959).
Tóm lại, Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp sửa đổi lần đầu của nước ta - vẫn kế thừa quan điểm quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946, nhưng không quy định rõ ràng về sự phân định, phối hợp, kiểm soát giữa hai loại quyền lực  và dường như có xu hướng “hợp nhất” giữa quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân.
3. Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1980
Quan điểm về quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước được kế tục ở Hiến pháp 1980. Vẫn đi theo logic của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Nhưng khác với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 bổ sung thêm quy định: “Quốc hội và HĐND các cấp là cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan nhà nước”. Với quan điểm này, mọi cơ quan nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập nên và thẩm quyền của các cơ quan đó đều bắt nguồn từ thầm quyền của cơ quan quyền lực, nói cách khác, quyền lực của các cơ quan khác của Nhà nước đều bắt nguồn từ quyền lực của Quốc hội và HĐND các cấp.
Hiến pháp năm 1980 đi theo hướng tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực nhà nước. Mối tương quan giữa lập pháp và hành pháp không được xác định rõ ràng như Hiến pháp 1946, thậm chí cũng không được như Hiến pháp 1959, mà như là sự thụt lùi của kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện ở quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Như vậy, Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của Quốc hội, chứ không phải cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước. Những quy định này phải chăng bắt nguồn từ logic: nhân dân bầu nên cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan quyền lực nhà nước bầu nên cơ quan chấp hành từ số các đại biểu của mình, thay mặt mình tổ chức thực hiện các quyết định do mình ban hành và điều hành mọi mặt đời sống đất nước.
Quan điểm tập quyền, tập trung quyền lực vào Quốc hội được thể hiện càng rõ với quy định: “Quốc hội có thể đặt cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn mới”, và khi cần Quốc hội có thể trao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Chính phủ những nhiệm vụ, quyền hạn mới. Với cơ chế này có thể dẫn đến nhận thức là: quyền lực của Quốc hội không bị hạn chế bởi Hiến pháp, bởi pháp luật.
Đi đôi với cơ chế tập quyền, tập trung quyền lực vào Quốc hội ở cấp trung ương, tập trung vào HĐND ở địa phương, thì chế độ trách nhiệm đi theo hướng đề cao trách nhiệm tập thể, ít quan tâm tới trách nhiệm cá nhân. Nhận thức này bắt nguồn từ các quy định sau đây: Bộ trưởng và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Về cơ chế giám sát của Quốc hội với Chính phủ cũng có những hạn chế nhất định khi Hiến pháp 1980 quy định: mọi thành viên của Chính phủ đều là đại biểu Quốc hội. Trên thực tế đại biểu Quốc hội chủ yếu là kiêm nhiệm, còn công việc chính là làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Từ đây dẫn tới tình trạng Quốc hội không thể giám sát được Chính phủ, theo đúng nghĩa của sự giám sát vì “đại biểu thường” khó có thể nói thẳng, nói thật với đại biểu có chức vụ - đây là một trở ngại với hoạt động giám sát. Hơn nữa, các đại biểu ở địa phương khó có thể giám sát được hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương, hơn nữa họ lại vướng nhau ở quan hệ công vụ. Đây là hạn chế lớn nhất bắt nguồn từ thể chế cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay.
Sự giám sát của quyền lực nhân dân đối với quyền lực nhà nước vốn được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959 cũng không được đề cập tới trong Hiến pháp 1980. Điều không ghi nhận này, phải chăng bắt nguồn từ quan niệm đơn giản rằng: Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên mọi hoạt động nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, do đó nhân dân không cần giám sát đối với các cơ quan nhà nước.
Với những quy định này, có thể nhận thấy một số điều, mà trong sách báo khoa học pháp lý Việt Nam ít được đề cập, có thể khái quát như sau:
- Chế độ “đại nghị” - tính trội thuộc về cơ quan đại diện - đã được xác lập trong Hiến pháp 1980.
- Sự tập trung quyền lực càng cao vào cơ quan quyền lực nhà nước - vào Quốc hội - thì sự phân công quyền lực càng không rõ.
- Sự phân công quyền lực càng không rõ thì chế độ trách nhiệm tập thể càng tăng, khi chế độ trách nhiệm tập thể càng tăng thì trách nhiệm cá nhân càng giảm.
- Chế độ tập quyền càng cao vào cơ quan quyền lực nhà nước, trách nhiệm tập thể càng cao thì càng làm cho sự điều hành của cơ quan hành chính yếu đi trong thực tế.
4. Quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
Khác với Hiến pháp năm 1980, về vấn đề quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước, sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các quyền lực này đã được khái quát hóa thành quan điểm tổng quát: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN  của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã khẳng định mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người tổ chức nên Nhà nước của mình.
Quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được lý giải:
Trước hết, với quan điểm quyền lực nhà nước - một loại quyền lực chính trị luôn thuộc về một giai cấp hay liên minh giữa các giai cấp - trong điều kiện hiện nay ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do đó việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính điều này quyết định sự thống nhất của quyền lực nhà nước - thống nhất ở khía cạnh chính trị của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, nhìn từ khía cạnh xã hội của vấn đề, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Còn nhân dân là một thể thống nhất bao gồm tất cả các dân tộc, giai cấp, tầng lớp cùng sinh sống lao động trên lãnh thổ Việt Nam, do đó quyền lực của họ là thống nhất, không bị phân chia. Sự thống nhất quyền lực nhà nước là sự thể hiện thống nhất quyền lực thuộc về nhân dân và từ bản thân bản chất của Nhà nước - thể chế xã hội, thể chế do xã hội tạo nên. Chính xã hội tạo nên Nhà nước chứ không phải Nhà nước tạo nên xã hội.
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước thể hiện qua sự thống nhất của hệ thống pháp luật, sự phân hóa, thứ bậc của các quyết định pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành. Hiến pháp là cơ sở pháp lý tối cao cho việc ban hành luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác, văn bản của cơ quan nhà nước ở cấp dưới không mâu thuẫn, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Sự thống nhất của quyền lực nhà nước thể hiện qua tính thứ bậc, quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước (cơ quan đại diện, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp) trong các phân hệ của bộ máy nhà nước.
Nhưng để thực hiện quyền lực đó cần có sự phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lập pháp là quyền đặt ra Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, đặt ra luật và sửa đổi luật. Quyền lập pháp ở nước ta thuộc về Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quyền lực lập pháp không phân bổ cho các đơn vị hành chính lãnh thổ, tuy vậy, theo cơ chế uỷ quyền lập pháp, quyền lập pháp được uỷ quyền cho UBTVQH - cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành Pháp lệnh. Các quy phạm của Pháp lệnh trong nhiều trường hợp được sử dụng như là luật. Nhưng để thực hiện quyền lập pháp, phải có sự tham gia của nhiều thể chế nhà nước (Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao) và nhiều thể chế xã hội dân sự (cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội) thể hiện qua quyền sáng kiến lập pháp của các thể chế này (Điều 87). Các thể chế cộng đồng được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên địa bàn theo sự phân cấp và trong khuôn khổ thẩm quyền của từng cấp hành chính: tỉnh, huyện, xã và các đơn vị hành chính tương đương. Như vậy, thực chất chính quyền địa phương cũng đặt ra pháp luật. Đây là điều khác hẳn giữa nước ta với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội, gồm quyền tổ chức quản lý các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội trên cơ sở pháp luật, quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật của hệ thống hành chính nhà nước. Quyền này không hoàn toàn hay tuyệt đối thuộc vào hệ thống hành chính nhà nước, mà còn thuộc vào cả các cơ quan khác của nhà nước, cả Quốc hội, Chủ tịch nước, TAND tối cao, VKSND tối cao, nhưng chủ yếu do hệ thống hành chính nhà nước thực hiện.
Khác với quyền lập pháp, quyền hành pháp được phổ biến xuống các đơn vị hành chính lãnh thổ thông qua cơ chế phân cấp quản lý của Nhà nước cho các đơn vị hành chính lãnh thổ tương ứng: tỉnh, huyện, xã và các đơn vị hành chính tương đương. Quyền hành pháp ở trung ương được thực hiện bởi Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ở địa phương được thực hiện bởi HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND). HĐND thực hiện quyền hành pháp bằng chức năng ra các nghị quyết, giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện quyền hành pháp thông qua hoạt động tổ chức các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội trên cơ sở Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp và ban hành các quyết định quy phạm.
Quyền hành pháp được phân công giữa Chính phủ với các đơn vị hành chính lãnh thổ thông qua cơ chế phân cấp quản lý. Xu hướng này ngày càng được thể hiện rõ nét qua các quy định của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương với cấp tỉnh và giữa cấp tỉnh với cấp huyện, cấp xã trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một xu hướng hợp quy luật vì trong quản lý nhà nước hiện đại không một quốc gia nào có quản lý thành công mà lại không phân cấp mạnh cho các chế chế cộng đồng.
Quyền tư pháp là quyền phán quyết về những tranh chấp dân sự, tranh chấp hành chính bằng con đường tố tụng của Tòa án, quyền phán quyết những hành vi nào là tội phạm và áp dụng hình phạt tương ứng. Quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình và hành chính của Tòa án, quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, quyền thực hiện các hoạt động hành chính - tư pháp của các cơ quan, thể chế khác của nhà nước và xã hội. Nhưng trung tâm của quyền tư pháp là quyền xét xử của Tòa án.
Quyền xét xử và công tố không phân công cho các đơn vị hành chính - lãnh thổ, mặc dù Tòa án, Viện kiểm sát có ở các tỉnh, huyện và đơn vị hành chính - lãnh thổ tương đương. Khi thực hiện chức năng xét xử, công tố, Tòa án và Viện Kiểm sát nhân danh Nhà nước mà không nhân danh đơn vị hành chính lãnh thổ, vì vậy dấu hiệu lãnh thổ không là yếu tố bắt buộc đối với những cơ quan này. Trong xu hướng cải cách tư pháp có thể thành lập các cơ quan xét xử, kiểm sát theo khu vực lãnh thổ.
Quan điểm tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta tới nay về mặt pháp lý vẫn không có những thay đổi; ở các cấp hành chính vẫn tồn tại hai loại cơ quan, cơ quan đại diện và cơ quan hành chính - cơ quan chấp hành của cơ quan đại diện.
Cách tổ chức này dẫn đến mâu thuẫn: Cơ quan đại diện được mô phỏng như cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất và có những chức năng tương tự như chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Từ đó dẫn đến sự phân công quyền lực không rõ ràng giữa cơ quan quyền lực và cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, và từ đây làm cho bộ máy chính quyền địa phương cồng kềnh, nhiều tầng nấc mà ít tác dụng với đời sống nhà nước và đời sống xã hội - điều mà nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập. Chính vì vậy, cần phải nhận thức lại một cách khách quan về phương thức, cách thức tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước với tư cách thể chế cộng đồng và quyền lực của các thể chế lãnh thổ - thể chế của riêng cộng đồng. Do đó, tùy theo quy mô, tính chất của từng đơn vị hành chính - lãnh thổ mà thiết lập thể chế quản lý cho phù hợp.
Sự phân biệt giữa quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước đã được khôi phục lại ở Hiến pháp năm 1992 bởi cơ chế trưng cầu ý dân. Trưng cầu ý dân có thể có quy mô toàn quốc hoặc quy mô vùng lãnh thổ. Khi trưng cầu ý dân trên quy mô toàn quốc thì mới là sự thể hiện quyền lực nhân dân theo đúng nghĩa của nó, còn trưng cầu ý dân ở một cộng đồng thì chỉ là ý chí của cộng đồng lãnh thổ dân cư nhất định. Tuy vậy, quy định này là nhằm tránh tình trạng quyền lực nhà nước - quyền lực thể chế cộng đồng chung xâm phạm tới lợi ích của cộng đồng lãnh thổ dân cư. Sự giám sát của quyền lực nhân dân đối với quyền lực nhà nước cũng vẫn chưa được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 1992. Để thể hiện được điều này cần phải quy định sự giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước thông qua các thể chế xã hội dân sự và sự giám sát trực tiếp của nhân dân, có như vậy mới hạn chế được sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước.
5. Vấn đề quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước cần được giải quyết khi sửa đổi Hiến pháp 1992
Vấn đề quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực nhân dân và tổ chức quyền lực nhà nước trong một quốc gia là vấn đề cốt yếu nhất của Hiến pháp, vì vậy khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cần phải được tính đến các điều sau đây:
- Hiến pháp không chỉ đơn giản ghi nhận quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, mà phải ghi nhận quyền lực nhân dân, cách phân công quyền lực nhân dân cho các thiết chế xã hội do nhân dân thành lập nên;
- Quyền lực nhân dân là tối cao, của toàn thể, được nhân dân thực hiện thông qua mọi thiết chế do nhân dân lập ra, với những quy mô, tính chất khác nhau. Nhân dân không trao cho bất kỳ một thiết chế nào trong xã hội mọi quyền lực của mình, kể cả Nhà nước. Nhà nước chỉ là một thiết chế xã hội, ngoài ra còn có những thiết chế xã hội khác. Vì vậy, trong chương về chế độ chính trị cần phải khẳng định điều này, có nghĩa là phải ghi nhận quyền lực của các thiết chế xã hội dân sự.
- Khi Hiến pháp ghi nhận sự phân công quyền lực nhân dân cho các thiết chế xã hội là đã xác định địa vị chính trị - Hiến pháp của các thiết chế này.
- Quyền lực nhà nước - bộ phận quan trọng nhất, bộ phận thường trực của quyền lực nhân dân - cần được tổ chức một cách khoa học trên cơ sở các nguyên tắc của phân công lao động quyền lực nhà nước.
- Phân công lao động quyền lực bảo đảm tính công khai, minh bạch, rõ ràng giữa các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước - giữa Quốc hội với Chủ tịch nước, với Chính phủ, Tòa án và với các thiết chế chính quyền địa phương - thiết chế cộng đồng.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tr. 85.
GS, TS. Phạm Hồng Thái - Chủ nhiệm Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.