Friday, January 13, 2012

Trích 1 câu chuyện trong sách ''Văn hóa pháp đinh''

Trích Văn hóa pháp đình, tác giả Trần Quốc Phú, Nxb Tư pháp.


Chủ tọa phiên tòa: '' Bị cáo Trần Tâm Tân, anh đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
!!!
Chủ tọa nhắc lại: ''Bị cáo Trần Tâm Tân đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
!!!
Chủ tọa phiên tòa gần như sắp nổi nóng nhưng đã kịp trấn tĩnh. Với tâm lý của người đã từng trải, với giọng nói to hơn, dứt khoát hơn, anh nói: ''Tôi nhắc lại lần thứ 3, bị cáo Tân đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
Bị cáo vẫn không trả lời, vẻ mặt ngây ngây, lớ ngớ như câm, như điếc, làm cho cả hội trường ào lên như phiên chợ. Còn những người tiến hành tố tụng thì như ngồi trên đống lửa. Vị kiểm sát viên cũng đứng dậy định ra tay nhưng thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã giơ tay như có ám hiệu với vị Kiểm sát viên rằng: ''Ông hãy bình tĩnh để tôi tiếp tục làm bổn phận của người điều hành phiên tòa''. Chút bối rối thoáng qua, ông chủ tọa thầm hỏi: ''Vì sao Tân lại không khai nhỉ? Ngoan cố chăng? Hay bị sốc nên cấm khẩu luôn? Nếu bị cáo mà không chịu khai báo thì phiên tòa này phải hõan. Khổ nỗi, vụ án chỉ có một 1 cáo, không có bị cáo thứ hai để đấu tranh qua bị cáo thứ 2 này sẽ rõ về bị cáo Tân ( như khoản 4 điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định) và rộng đường xử lý tình huống này''.
Trong lúc này các thành viên Hội đồng xét xử đang lúng túng, còn vị đại diện Viện kiểm sát duy trì quyền công tố tại phiên tòa đứng lên, ngồi xuống không yên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thầm điểm lại- phiên tòa chuẩn bị rất kỹ càng, người tham dự rất đông, chẳng lẽ bị cáo câm thật, điếc thật sao? Có đến mức phải hõan phiên tòa không? Nhưng quá trình nghiên cứu hồ sơ có chỗ nào phản ánh bị cáo bị điếc đâu? Mới cách đây vài ngày thư ký còn phản ánh việc tống đạt quyết định cho y, bị cáo vẫn hòan toàn bình thường. Qua báo cáo của cảnh sát trại gia, cảnh sát dẫn giải cũng không có phản ánh gì bất thường. Vậy có nghĩa đây là tình huống bất ngờ vừa mới phát sinh, phải chăng bị cáo đang bầy mưu tính kế gì đây, đằng sau y liệu có thế lực nào bày mưu tính kế để hõan binh? Nhìn bị cáo, niềm tin nội tâm trong ông mách bảo ông rằng: '' Bị cáo đang là kẻ phạm tội nhất thời, nhưng bản chất con người chất phác đã từng trải qua chiến tranh ác liệt, nay do đấu tranh với cái nhỏ nhen trỗi dậy trong người không thắng nổi, bây giờ lại thêm những thầy cò dẫn lối chỉ đường, đầu óc u mê làm theo''. Ông bỗng thấy chạch lòng thương cảm, quyết tâm đấu tranh chiến thắng âm mưu của kẻ xấu mà bị cáo chỉ là 1 con rối.
Sau một loạt những nhận định dồn dập hiện lên và được kiểm chứng ngay, với bản lĩnh từng trải trong nghề thẩm phán, lại sắc sảo trong nghiệp vụ điều tra và hiểu biết về tâm lý của kẻ phạm tội, ông quay sang nói nhỏ với các vị trong Hội đồng xét xử điều gì đó, nhưng không ai nghe thấy được, chỉ thấy các vị đó gật đầu tỏ vẻ đồng tình, rồi ông quay xuống chỗ bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa, nhưng với một sự phát âm khẽ khàng hơn, như để bị cáo phải tập trung mới có thể nghe được:
''Thôi được, bị cáo không trả lời, Hội đồng xét xử chưa rõ nguyên nhân bệnh tật...''
Nói đoạn ông quay sang nhìn vị đại diện Viện kiểm sát như thể có tín hiệu phối hợp đấu tranh rồi lên tiếng:
''Để phiên tòa tiếp tục, tôi xin thay mặt Hội đồng xét xử công bố lai lịch của bị cáo để nhân dân tham dự phiên tòa biết rõ hơn về nhân thân bị cáo.
Vừa nói ông vừa chậm rãi mở tập hồ sơ lấy 1 bút lục đặc kín và đọc:
''Trần Tâm Tân, 49 tuổi, sinh quán tại xã VN huyện X tỉnh NĐ trú tại 101 phố T thành phố HN- nguyên là Phó giám đốc Sở xây dựng tỉnh L, đã có thời gian trong quân ngũ với chức vụ thiếu tá. Nhưng vì vi phạm quân lệnh nghiêm trọng nên đã bị giáng chức xuống thượng úy và khai trừ ra khỏi Đảng...''
Chủ tọa chưa dứt lời thì bị cáo đã vùng vẫy như cá mắc lưới giơ cả 2 tay lên trời gào thét:
''Nói láo! Nói láo! Tòa án vu khống! Tôi phản đối!''
Chờ cho bị cáo bình tĩnh trở lại và ổn định trật tự, thẩm phán tiếp tục với thái độ nhẹ nhàng những dứt khoát rõ ràng:
''Đề nghị thư ký ghi lại tất cả diễn biến của sự việc vừa rồi và sự phản đối của bị cáo''.
Đoạn ông nhìn xuống nơi bị cáo đứng trước vành móng ngựa với nét mặt tái mét vì uất ức. Ông nói:
''Tôi vừa công bố lai lịch của anh và anh đã phản đối cho là tôi vu khống. Vậy, tôi hỏi lại anh lần nữa, lai lịch của anh có hay không có những tình tiết như tôi vừa công bố?''
''Tôi phản đối, ông nói láo. vu khống lai lịch tốt đẹp của tôi, lý lịch của tôi không hề có những điều ông vừa công bố!''
''Thôi được, đề nghị cô thư ký phiên tòa ghi lại chính xác những lời đối thoại của tôi và bị cáo và cho bị cáo nghe lại và ký vào đó''.
Chờ bị cáo xem lại biên bản và ký, ông đứng dậy với nét mặt nghiêm trang nhưng đôi mắt của ông nếu quan sát kỹ thì ánh lên niềm vui. Ông nói:
''Tôi xin thay mặt hội đồng xét xử tuyên bố rằng: Những lời tôi vừa công bố về lai lịch của bị cáo là không có. Nhưng đồng thời tôi cũng cảnh báo bị cáo rằng: bị cáo đã ngoan cố dùng thủ đoạn vờ không nghe thấy gì nhằm mục đích làm cho phiên tòa không thể tiến hành bình thường...''
Rồi ông nhìn bị cáo với ánh mắt nghiêm khắc nhưng cũng đầy lòng vị tha của một vị thẩm phán:
''Bây giờ thì anh có thể trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử được rồi chứ?''
Bị cáo như vừa bừng tỉnh sau 1 cơn mê và với 1 tâm trạng đầy hối hận:
''Thưa quan tòa tôi xin thành khẩn khai báo hành vi tham ô của tôi và xin quan tòa tha thứ cho sự dại dột của tôi vừa rồi''...

Trích 1 câu chuyện trong sách ''Văn hóa pháp đinh''

Trích Văn hóa pháp đình, tác giả Trần Quốc Phú, Nxb Tư pháp.


Chủ tọa phiên tòa: '' Bị cáo Trần Tâm Tân, anh đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
!!!
Chủ tọa nhắc lại: ''Bị cáo Trần Tâm Tân đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
!!!
Chủ tọa phiên tòa gần như sắp nổi nóng nhưng đã kịp trấn tĩnh. Với tâm lý của người đã từng trải, với giọng nói to hơn, dứt khoát hơn, anh nói: ''Tôi nhắc lại lần thứ 3, bị cáo Tân đã được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa?''
Bị cáo vẫn không trả lời, vẻ mặt ngây ngây, lớ ngớ như câm, như điếc, làm cho cả hội trường ào lên như phiên chợ. Còn những người tiến hành tố tụng thì như ngồi trên đống lửa. Vị kiểm sát viên cũng đứng dậy định ra tay nhưng thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã giơ tay như có ám hiệu với vị Kiểm sát viên rằng: ''Ông hãy bình tĩnh để tôi tiếp tục làm bổn phận của người điều hành phiên tòa''. Chút bối rối thoáng qua, ông chủ tọa thầm hỏi: ''Vì sao Tân lại không khai nhỉ? Ngoan cố chăng? Hay bị sốc nên cấm khẩu luôn? Nếu bị cáo mà không chịu khai báo thì phiên tòa này phải hõan. Khổ nỗi, vụ án chỉ có một 1 cáo, không có bị cáo thứ hai để đấu tranh qua bị cáo thứ 2 này sẽ rõ về bị cáo Tân ( như khoản 4 điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định) và rộng đường xử lý tình huống này''.
Trong lúc này các thành viên Hội đồng xét xử đang lúng túng, còn vị đại diện Viện kiểm sát duy trì quyền công tố tại phiên tòa đứng lên, ngồi xuống không yên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thầm điểm lại- phiên tòa chuẩn bị rất kỹ càng, người tham dự rất đông, chẳng lẽ bị cáo câm thật, điếc thật sao? Có đến mức phải hõan phiên tòa không? Nhưng quá trình nghiên cứu hồ sơ có chỗ nào phản ánh bị cáo bị điếc đâu? Mới cách đây vài ngày thư ký còn phản ánh việc tống đạt quyết định cho y, bị cáo vẫn hòan toàn bình thường. Qua báo cáo của cảnh sát trại gia, cảnh sát dẫn giải cũng không có phản ánh gì bất thường. Vậy có nghĩa đây là tình huống bất ngờ vừa mới phát sinh, phải chăng bị cáo đang bầy mưu tính kế gì đây, đằng sau y liệu có thế lực nào bày mưu tính kế để hõan binh? Nhìn bị cáo, niềm tin nội tâm trong ông mách bảo ông rằng: '' Bị cáo đang là kẻ phạm tội nhất thời, nhưng bản chất con người chất phác đã từng trải qua chiến tranh ác liệt, nay do đấu tranh với cái nhỏ nhen trỗi dậy trong người không thắng nổi, bây giờ lại thêm những thầy cò dẫn lối chỉ đường, đầu óc u mê làm theo''. Ông bỗng thấy chạch lòng thương cảm, quyết tâm đấu tranh chiến thắng âm mưu của kẻ xấu mà bị cáo chỉ là 1 con rối.
Sau một loạt những nhận định dồn dập hiện lên và được kiểm chứng ngay, với bản lĩnh từng trải trong nghề thẩm phán, lại sắc sảo trong nghiệp vụ điều tra và hiểu biết về tâm lý của kẻ phạm tội, ông quay sang nói nhỏ với các vị trong Hội đồng xét xử điều gì đó, nhưng không ai nghe thấy được, chỉ thấy các vị đó gật đầu tỏ vẻ đồng tình, rồi ông quay xuống chỗ bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa, nhưng với một sự phát âm khẽ khàng hơn, như để bị cáo phải tập trung mới có thể nghe được:
''Thôi được, bị cáo không trả lời, Hội đồng xét xử chưa rõ nguyên nhân bệnh tật...''
Nói đoạn ông quay sang nhìn vị đại diện Viện kiểm sát như thể có tín hiệu phối hợp đấu tranh rồi lên tiếng:
''Để phiên tòa tiếp tục, tôi xin thay mặt Hội đồng xét xử công bố lai lịch của bị cáo để nhân dân tham dự phiên tòa biết rõ hơn về nhân thân bị cáo.
Vừa nói ông vừa chậm rãi mở tập hồ sơ lấy 1 bút lục đặc kín và đọc:
''Trần Tâm Tân, 49 tuổi, sinh quán tại xã VN huyện X tỉnh NĐ trú tại 101 phố T thành phố HN- nguyên là Phó giám đốc Sở xây dựng tỉnh L, đã có thời gian trong quân ngũ với chức vụ thiếu tá. Nhưng vì vi phạm quân lệnh nghiêm trọng nên đã bị giáng chức xuống thượng úy và khai trừ ra khỏi Đảng...''
Chủ tọa chưa dứt lời thì bị cáo đã vùng vẫy như cá mắc lưới giơ cả 2 tay lên trời gào thét:
''Nói láo! Nói láo! Tòa án vu khống! Tôi phản đối!''
Chờ cho bị cáo bình tĩnh trở lại và ổn định trật tự, thẩm phán tiếp tục với thái độ nhẹ nhàng những dứt khoát rõ ràng:
''Đề nghị thư ký ghi lại tất cả diễn biến của sự việc vừa rồi và sự phản đối của bị cáo''.
Đoạn ông nhìn xuống nơi bị cáo đứng trước vành móng ngựa với nét mặt tái mét vì uất ức. Ông nói:
''Tôi vừa công bố lai lịch của anh và anh đã phản đối cho là tôi vu khống. Vậy, tôi hỏi lại anh lần nữa, lai lịch của anh có hay không có những tình tiết như tôi vừa công bố?''
''Tôi phản đối, ông nói láo. vu khống lai lịch tốt đẹp của tôi, lý lịch của tôi không hề có những điều ông vừa công bố!''
''Thôi được, đề nghị cô thư ký phiên tòa ghi lại chính xác những lời đối thoại của tôi và bị cáo và cho bị cáo nghe lại và ký vào đó''.
Chờ bị cáo xem lại biên bản và ký, ông đứng dậy với nét mặt nghiêm trang nhưng đôi mắt của ông nếu quan sát kỹ thì ánh lên niềm vui. Ông nói:
''Tôi xin thay mặt hội đồng xét xử tuyên bố rằng: Những lời tôi vừa công bố về lai lịch của bị cáo là không có. Nhưng đồng thời tôi cũng cảnh báo bị cáo rằng: bị cáo đã ngoan cố dùng thủ đoạn vờ không nghe thấy gì nhằm mục đích làm cho phiên tòa không thể tiến hành bình thường...''
Rồi ông nhìn bị cáo với ánh mắt nghiêm khắc nhưng cũng đầy lòng vị tha của một vị thẩm phán:
''Bây giờ thì anh có thể trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử được rồi chứ?''
Bị cáo như vừa bừng tỉnh sau 1 cơn mê và với 1 tâm trạng đầy hối hận:
''Thưa quan tòa tôi xin thành khẩn khai báo hành vi tham ô của tôi và xin quan tòa tha thứ cho sự dại dột của tôi vừa rồi''...

Bàn về nội dung của một bản hiến pháp ( Phần đầu)



Bàn về nội dung của một bản hiến pháp

Nội dung của một bản Hiến pháp là mặt bên trong của Hiến pháp, là những gì chứa đựng và thể hiện trong một bản Hiến pháp. Lịch sử Lập hiến hơn 200 năm nay của nhân loại chỉ ra rằng tuy có sự khác nhau về những quy định cụ thể trong một bản Hiến pháp của các quốc gia khác nhau, nhưng nội dung tổng thể của một bản Hiến pháp theo quan niệm truyền thống bao gồm bốn phần cơ bản sau đây:

Một là, Chính thể của một nước;
Hai là, Các quyền cơ bản của con người, của công dân;
Ba là, Tổ chức quyền lực Nhà nước;
Bốn là, Quy trình ban hành và sửa đổi Hiến pháp.
Nhân dịp sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), chúng tôi xin có một số ý kiến bàn về nội dung của một bản Hiến pháp.
Về chính thể của một nước hay chế độ chính trị
Đây là nội dung thường được bố trí chương đầu tiên của một bản Hiến pháp dẫu là theo Hiến pháp nguyên thủy hay hiện đại. Bởi, nội dung của nó là những tuyên bố trang trọng mang tính nền tảng của một quốc gia về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; về bản chất của quyền lực nhà nước (theo hình thức chính thể nào); và về một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Đây là những nội dung được thể hiện xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp. Các chương sau của Hiến pháp là sự cụ thể hoá thêm một bước nội dung của chương này. Tư tưởng và quan điểm trong chương này, quyết định nội dung của các chương tiếp theo của Hiến pháp, nó là cơ sở bảo đảm sự thống nhất của toàn bộ bản Hiến pháp. Vì thế, đây là chương không có nhiều điều khoản, nhưng lại là chương đặc biệt quan trọng quyết định nội dung của toàn bộ bản Hiến pháp.
Hiến pháp năm 1992 hiện hành của nước ta cũng đã thể hiện những nội dung này ở chương I: Nhà nước CHXHCN Việt Nam - chế độ chính trị. Tuy nhiên, theo chúng tôi còn một số điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu để đổi mới và hoàn thiện trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này.
Một là, Hiến pháp cần phải quy định rõ nước ta theo hình thức chính thể nào? Bởi hình thức chính thể sẽ quyết định cách thức tổ chức các cơ quan nhà nước tối cao và xác lập những mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Tại điều 1 Hiến pháp năm 1992 mới chỉ quy định nước ta là nước Cộng hòa XHCN. Điều đó mới chỉ nói lên được tên nước mà chưa nói nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nước theo hình thức chính thể nào? Nên chăng viết theo cách thể hiện Điều 1 của Hiến pháp năm 1946: Nước Việt Nam XHCN là một nước dân chủ cộng hòa.
Hai là, Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hay chủ quyền nhân dân là nguyên tắc nền tảng chẳng những được quy định trong chương I mà còn phải xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Tất cả quyền lực nhà nuớc thuộc về nhân dân”. Đây là một quy định chỉ rõ nguồn gốc, bản chất và mục đích của quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân. Nguyên lý này không những được quy định trong Hiến pháp nước ta mà còn được quy định trong hầu hết Hiến pháp của các nhà nước dân chủ và pháp quyền… Điều 2 nói trên là đúng và phù hợp. Tuy nhiên, tại điều 6 Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Nội dung của điều khoản này mâu thuẫn với điều 2 nói trên. Bởi nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện mà còn phải thông qua các cơ quan nhà nước khác như hành pháp, tư pháp và các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp như phúc quyết Hiến pháp, trưng cầu dân ý…
Ba là, có một số quy định trong Chương I, không phù hợp với đối tượng và phạm vi điều chỉnh của chương chính thể. Ví dụ Điều 7 quy định quyền bầu cử và quyền bãi miễn ĐBQH và đại biểu HĐND là các quyền chính trị cơ bản của công dân thuộc đối tuợng quy định ở chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương V). Hay Điều 12 quy định về quyền làm chủ của công dân ở cơ sở cũng không phù hợp với chương này.
Bốn là, có một số điều luật quy định quá cụ thể, thiếu khái quát chưa ngang tầm Hiến pháp và còn trùng lắp. Ví dụ về nhà nước có đến 5 điều, quy định cả chính sách dân tộc (điều 5), chính sách đối ngoại (điều 14); quy định nguyên tắc (điều 2, điều 12, điều 8); vừa quy định bản chất nhà nước (điều 2) vừa quy định mục tiêu của nhà nước (điều 3)… Có thể nói các quy định về nhà nước trong Chương I không theo một lôgíc nào cả, lộn xộn cần phải được sắp xếp lại và bỏ bớt các yếu tố trùng lắp hoặc chưa xứng tầm được quy định trong Chương I Hiến pháp. Điều 9 quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 10 lại quy định công đoàn. Hai điều này có sự trùng lắp.
Từ những tồn tại nói trên, chế độ chính trị, cần được thể hiện trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo định hướng sau:
Một là, xác định phạm vi, nội dung những vấn đề cần phải thể hiện trong chương này. Theo tôi có các vấn đề cơ bản sau đây nhất thiết phải thể hiện trong chương I:
Nhà nước ta theo hình thức chính thể gì? Hiến pháp hiện hành chưa viết rõ điều này;
Tính thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
Bản chất, vai trò và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của nhà nước ta và xã hội ta.
Hệ thống chính trị nước ta gồm Đảng lãnh đạo và các tổ chức chính trị xã hội.
Hai là, kỹ thuật lập hiến thể hiện theo cách viết bao quát, không quy định quá cụ thể. Theo đó, tên Chương I chỉ nên viết là chế độ chính trị hay chính thể như Hiến pháp năm 1946.
Về các quyền cơ bản của con người, của công dân ghi nhận trong Hiến pháp
Đây là một nội dung quan trọng, cơ bản thường được quy định trong các chương đầu của một bản Hiến pháp. Bởi sự ra đời và tồn tại của Hiến pháp theo quan niệm truyền thống bắt nguồn từ lý thuyết về chủ quyền nhân dân. Nhân dân được xem là chủ thể của quyền lập hiến và với tư cách là một khế ước xã hội, trước hết Hiến pháp thể hiện chủ quyền của nhân dân. Mà một trong những nội dung quan trọng của chủ quyền nhân dân là người dân trong một nhà nước có những quyền gì? Nội dung của các quyền con người, quyền công dân trong các bản Hiến pháp theo mô hình Hiến pháp truyền thống thường là các quyền tự nhiên do tạo hóa ban cho con người, chứ không phải Hiến pháp hay nhà nước ban phát tặng cho. Đó thường là các quyền dân sự - chính trị tức là các quyền tự do, bình đẳng cho cá nhân con người mà nhà nước phải tôn trọng và có nghĩa vụ bảo vệ. Từ thế hệ một với các quyền dân sự và chính trị của cá nhân, đã dần dần phát triển lên thế hệ thứ hai về quyền con người, bao gồm các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, các quyền dân tộc cơ bản, tự quyết bình đẳng giữa các quốc gia và dân tộc. Và ngày nay, thế hệ thứ ba về quyền con người, với các quyền mới như: Quyền được phát triển, quyền được thông tin, quyền được sống trong môi trường trong sạch… đang được ghi nhận và khẳng định trong nhiều bản Hiến pháp của các nước. Ngoài việc liệt kê các quyền con người, quyền công dân, theo xu hướng ngày càng mở rộng và phát triển, Hiến pháp còn quy định trách nhiệm và giới hạn của nhà nước trong việc bảo đảm và tạo điều kiện cho con người và công dân thực hiện các quyền và làm tròn các nghĩa vụ.
Nghiên cứu nội dung về quyền con người, quyền công dân, qua 4 bản Hiến pháp của nước ta, có thể rút ra một số nhận xét sau đây làm cơ sở cho việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp sắp tới:
Một là, quyền con người, quyền công dân ở nước ta gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu mới, với việc xác lập chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc, đưa con người từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước và mưu cầu hạnh phúc. Do đó, có thể nói rằng quyền con người, quyền công dân ở nước ta ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhà nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay và quan hệ chặt chẽ với nhà nước. Dường như nhà nước là điểm khởi đầu để con người và công dân Việt Nam được hưởng quyền. Hơn nữa, Hiến pháp trong chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đây được quan niệm là của nhà nước, phục vụ cho việc quản lý nhà nước. Do vậy, trong nhận thức của xã hội nói chung, của nhà nước nói riêng coi các quyền và nghĩa vụ của công dân là do nhà nước quy định, dường như là một sự ban phát tặng cho từ phía nhà nước. Vì thế, nội dung của các quyền ghi nhận trong Hiến pháp quá lý tưởng cao hơn điều kiện kinh tế - xã hội nên nhiều quyền không có điều kiện và cơ chế thực hiện trong thực tế (như Hiến pháp năm 1980); cách thể hiện còn mang tính chất ban phát tặng cho từ phía nhà nước mà không phải là quyền của chính con người, của chính công dân: chưa xem các quyền Hiến định của công dân là một phạm vi giới hạn pháp lý đối với công quyền. Với những tồn tại đó, sửa đổi Hiến pháp lần này, cần có một sự đổi mới cơ bản về nhận thức và cách thức thể hiện các quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp.
Trước hết về nhận thức cần có quan niệm đầy đủ, thống nhất về quyền con người, quyền công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Trước đây, trong quan niệm của các học giả tư sản đã tồn tại hai khuynh hướng đối lập nhau trong việc giải quyết mối quan hệ này. Một khuynh hướng cho rằng cần phải thu hẹp quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân mà đại biểu là Joi Lốc Cơ (nhà triết học chính trị người Anh 1632-1704). Đây là điều kiện để thỏa mãn quyền của từng cá nhân con người, nhằm bảo đảm sự an toàn cho từng cá nhân khỏi bị quyền lực nhà nước xâm hại. Ngược lại, có khuynh hướng đòi hỏi được mở rộng quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân con người và công dân. Theo quan điểm này, quyền lực nhà nước cần được tăng cường, cần được thiết lập để bảo đảm và thoả mãn các yêu sách về các quyền của con người. Đại diện cho khuynh hướng này là Tô Mát Hốp Xơ (nhà triết học 1588-1679). Trong điều kiện ngày nay, việc quan niệm đúng đắn quyền con người, quyền công dân phải hướng đến việc giải quyết các quan hệ giữa cá nhân với xã hội; giữa tính nhân loại với tính giai cấp; giữa lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế; giữa giá trị đạo đức với giá trị pháp luật và quyền lực nhà nước; giữa lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế, giữa khả năng và nhu cầu tự nhiên. Như vậy, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và toàn cầu hóa, nội dung quyền con người, quyền công dân ghi nhận trong Hiến pháp theo chúng tôi cần quan tâm đến các vấn đề sau:
Quyền con người là những giá trị gắn liền với mỗi con người vừa với tư cách cá nhân vừa với tư cách là thành viên của xã hội, thành viên của một nhà nước nhất định. Vì vậy, quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng.
Quyền con người là những giá trị phải được thừa nhận chung bằng cách thể chế hóa trong Hiến pháp và Luật thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính.
Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là những giá trị nảy sinh trong đời sống cộng đồng gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế độ chính trị - pháp lý cụ thể. Ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp phải thể hiện được các nhu cầu và khả năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân trí cụ thể… Chỉ có thông qua Hiến pháp và pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Với nhận thức đó, việc thể hiện trong Hiến pháp trước hết phải khẳng định chủ thể của quyền là con người và công dân trong nhà nước. Đồng thời đó chính là nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm và tạo điều kiện cho con người và công dân thực hiện các quyền.
Hai là, quyền và nghĩa vụ của công dân được thể hiện một cách thống nhất và nhất quán trong cả 4 bản Hiến pháp nước ta. Hiến pháp sau có bước phát triển so với Hiến pháp trước về nội dung các quyền của công dân. Thế hệ thứ ba về các quyền, cơ bản của con người của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 như quyền được thông tin (điều 69). Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ quyền con người, chưa có sự phân biệt giữa quyền con người với quyền công dân và cho rằng quyền con người thể hiện ở quyền công dân (điều 50). Theo đó, các quyền con người, quyền công dân được quan niệm đồng nhất trong Hiến pháp nước ta. Quan điểm đó cần được khắc phục trong việc sửa đổi Hiến pháp lần này. Theo chúng tôi, mặc dầu quyền con người và quyền công dân không tách rời nhau một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận quyền con người và quyền công dân với tính cách là các khái niệm vừa mang tính độc lập vừa có mối liên hệ biện chứng là hoàn toàn phù hợp. Quyền con người và quyền công dân trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền của cá nhân. Song không vì thế mà đồng nhất hai khái niệm đó xét cả về phương diện chủ thể của quyền và nội dung của quyền. Quyền con người là khái niệm rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế, vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định. Do vậy, nội dung, số lượng và chất lượng quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Một mặt, quyền con người không loại trừ khái niệm quyền công dân, bao hàm quyền công dân như là một bộ phận, nội dung cơ bản của quyền con người; song, mặt khác cũng không thể thay thế được khái niệm đó. Ngược lại, quyền công dân là khái niệm hẹp hơn. Trong ý nghĩa pháp lý, khái niệm quyền công dân để chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, không bao quát hết tất cả các quyền của cá nhân con người. Về phương diện chủ thể quyền con người ngoài những cá nhân được xác định là công dân còn bao hàm những người không phải là công dân (người nước ngoài, những người không có quốc tịch, người bị pháp luật tước quyền công dân); những người này tuy không được hưởng các quyền công dân, nhưng vẫn có các quyền về con người với tính cách là một thành viên của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng đồng loài người. Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân thể hiện trong nội dung của quyền con người trên bình diện quốc tế và quyền công dân trong phạm vi từng quốc gia. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền đã đề ra nguyên tắc:
Tất cả mọi người đều có những quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng, đó là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Sự phủ nhận và coi thường các quyền con người đều dẫn đến các hành vi man rợ, làm công phẩn lương tâm của loài người. Một thế giới mới ra đời, trong đó mọi người sẽ có quyền tự do ngôn luận và tín ngưỡng, được giải phóng khỏi mọi khủng bố và nghèo khổ, xã hội đó được nêu lên thành khát vọng cao nhất của con người.
Từ nhận thức nói trên, chẳng những trong Hiến pháp phải viết rõ tên chương là quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn phải thể hiện đầy đủ nội dung của các quyền, bao gồm:
Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền được lập hội, quyền biểu tình, bãi công, quyền tự do tín ngưỡng.
Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn bí mật về thư tín, điện thoại; quyền tự do đi lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền khiếu nại, tố cáo…
Các quyền về kinh tế - xã hội bao gồm: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền thừa kế; quyền sáng chế phát minh; quyền được bảo vệ sức khỏe; các quyền mang tính chất ưu tiên như quyền trẻ em; quyền của người già, người cô đơn không  nơi nương tựa; quyền được sống trong  môi trường trong sạch không bị ô nhiễm, quyền được phát triển của cá nhân…
(còn nữa)
Gs.Ts. Trần Ngọc Đường--ĐBND

Bàn về nội dung của một bản hiến pháp (Phần cuối)


Bàn về nội dung của một bản hiến pháp (Phần cuối)

* Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
* Quy trình lập hiến
* Nội dung quy định về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại trong Hiến pháp
Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
Đây là một nội dung căn bản của Hiến pháp. Bởi Hiến pháp ra đời và tồn tại bắt nguồn từ chủ quyền nhân dân. Thông qua quyền lập hiến, nhân dân thỏa thuận giao quyền, ủy quyền cho nhà nước, để cho nhà nước thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước theo ý chí của mình. Vì thế, Hiến pháp được quan niệm là một văn bản thỏa thuận chung của nhân dân trong một quốc gia, về những cách thức tổ chức quyền lực nhà nước mà theo họ là phù hợp và đem lại hạnh phúc cho mình. Thông thường trong một bản Hiến pháp của các nhà nước dân chủ và pháp quyền tổ chức quyền lực nhà nước bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Vị trí, vai trò; chức năng, nhiệm vụ quyền hạn; các nguyên tắc cơ bản; các mối quan hệ giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
Cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước;
Hiến pháp nước ta cũng đã dành năm chương để quy định về tổ chức quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi và phát triển năm 2011), việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sắp tới, về nội dung tổ chức quyền lực nhà nước, theo chúng tôi cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
Một là, phân công quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một nội dung rất quan trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN nước ta. Nó là nhân tố bảo đảm cho quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm cho nhà nước tổ chức và hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, phòng chống được sự dựa dẫm ỷ lại giữa các quyền. Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành chưa phân công, phân nhiệm một cách phù hợp, rõ ràng, minh bạch trong việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ chủ thể phân công quyền lực nhà nước chưa phù hợp. Nhân dân là chủ thể phân công quyền lực chưa được quy định rõ trong Hiến pháp.
Bằng việc thực thi quyền Lập pháp, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Theo đó, có thể thấy rằng quyền lập hiến là quyền lực tối cao so với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” (điều 83). Quy định này không thống nhất với điều 2 của Hiến pháp: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì thế, trong nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước thuộc về ai thì chủ thể đó có quyền Lập hiến và khi nhân dân có quyền lập hiến thì nhân dân trở thành chủ thể phân công quyền lực nhà nước.
Mặc dầu đã có những đổi mới, nhưng những quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001) và Luật Tổ chức QH hiện hành còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền với một số nhiệm vụ, quyền hạn phân công cho QH chưa thật phù hợp. Ví dụ QH cơ quan duy nhất có quyền Lập hiến (điều 83); quyền giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật thuộc quyền tư pháp lại giao cho QH; quyền giải thích chính thức Hiến pháp, luật và pháp lệnh giao cho UBTVQH cũng không phù hợp (vì đây là hoạt động vi mô gắn liền với sự kiện pháp lý trong lúc đó UBTVQH là cơ quan hoạt động mang tính chất vĩ mô ở tầm quốc gia).
Chính phủ không được Hiến pháp phân công là cơ quan hành pháp cao nhất mà là cơ quan hành chính cao nhất đã làm cho việc phân công quyền lực nhà nước cho Chính phủ không đầy đủ. Bởi vì, hành chính (administratinon) là chấp hành và điều hành chính sách mang tính thụ động; còn hành pháp (exucutire) là hoạch định, khởi xướng và điều hành chính sách, mang tính chủ động, năng động và sáng tạo gắn liền với hoạt động của các chính khách.
Hiến pháp hiện hành của nước ta không phân công rõ cơ quan nào là cơ quan tư pháp. Tòa án được phân công quyền xét xử nhưng không được gọi là cơ quan tư pháp. Vì thế, việc phân công quyền xét xử cho tòa án với phạm vi thẩm quyền còn hạn chế. Có một số thẩm quyền thuộc quyền xét xử nhưng lại không được giao cho Toà án. Ví như xét xử tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật thay vì quyền này lại giao cho nhiều cơ quan khác nhau như QH, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dầu Hiến pháp không quy định cơ quan nào là cơ quan tư pháp, nhưng lại phân công cho Viện kiểm sát nhân dân nhiệm vụ và quyền hạn là kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Hai là, Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nội dung mới được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ bổ sung trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vừa qua; chẳng những phải được ghi nhận thành nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước quy định ở chương I của Hiến pháp mà các chương về tổ chức quyền lực nhà nước cũng cần phải được thể hiện một cách xuyên suốt: bởi đây là một nội dung trung tâm trong tổ chức quyền lực nhà nước nhằm khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước trở về đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành chưa được quan tâm đầy đủ về nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trước hết, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp hiện hành ở nước ta chủ yếu được giao cho QH bằng phương thức giám sát tối cao. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện phương thức này cũng còn bộc lộ một số hạn chế. Đó là hiệu lực và hiệu quả giám sát không cao do đối tượng giám sát quá rộng, nội dung giám sát bao gồm: “toàn bộ hoạt động của nhà nước” (điều 83 Hiến pháp) và chế tài giám sát cũng không đầy đủ và rành mạch.
Kiểm soát quyền lực nhà nước trong hệ thống các cơ quan hành pháp chủ yếu mang tính chất nội bộ, phục vụ quản lý nhà nước của thủ trưởng chủ yếu bằng kiểm tra, thanh tra. Mới chỉ có cơ chế  kiểm soát hoạt động của hành pháp thông qua khởi kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính của người, cơ quan hành chính có thẩm quyền.
Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cơ quan tư pháp chưa được coi trọng nên quyền con người, quyền công dân chưa được bảo hộ triệt để và đến cùng.
Từ những nhận xét nói trên có thể thấy rằng: việc kiểm soát quyền lực nhà nước đặc biệt là giám sát Hiến pháp và phán quyết vi phạm Hiến pháp không được Hiến pháp quy định cho một cơ quan chuyên trách mà theo chức năng nhiệm vụ của mình, tất cả các cơ quan nhà nước phải có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ Hiến pháp phi tập trung, không mang tính chất phán quyết theo một thủ tục tố tụng riêng thống nhất. Khi phát hiện hành vi vi phạm Hiến pháp, các chủ thể có thẩm quyền tự mình hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Với cơ chế này, thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp không được phân định trách nhiệm rõ ràng. Vì vậy, hiệu quả bảo vệ Hiến pháp không cao.
Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta, chưa có cơ chế để “phán quyết những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động Lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X trang 127). Kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân một cách triệt để khi quyền lực nhà nước xâm hại đến. Ví như chưa có quyền khởi kiện đối với văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp… Vì thế, trong lần sửa đổi Hiến pháp này cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, góp phần bảo đảm cho nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được kiểm soát một cách đầy đủ.
Quy trình lập hiến
Đây là nội dung sau cùng của môt bản Hiến pháp theo mô hình Hiến pháp truyền thống. Tuy là nội dung sau cùng nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong một bản Hiến pháp. Bởi, quy trình Lập hiến là điểm khởi đầu bảo đảm cho nguyên tắc Hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được thực hiện ngay từ thủ tục ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp.
Lịch sử Lập hiến hơn 200 năm của nhân loại cho thấy quy trình ban hành Hiến pháp có sự khác nhau, nhưng xu hướng chung là quy trình ngày càng dân chủ, chất lượng của một bản Hiến pháp phụ thuộc phần lớn vào việc nó được làm ra theo quy trình công nghệ như thế nào. Để có một bản Hiến pháp có chất lượng tốt, phù hợp với thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, mở cửa và hội nhập quốc tế, cần phải đổi mới quy trình ban hành và sửa đổi Hiến pháp của nước ta hiện nay. Nội dung của quy trình ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp được quy định ngay trong bản Hiến pháp, thông thường bao gồm các vấn đề sau đây:
Hiến pháp xác định ai là chủ thể có quyền ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Đây là điểm đầu tiên và cũng là điểm mấu chốt trong quy trình Lập hiến nói chung, sửa đổi Hiến pháp nói riêng. Bởi đây là vấn đề liên quan đến quan niệm về Hiến pháp. Nếu Hiến pháp được xem là một văn bản của nhà nước, một hình thức để nhà nước quy định tổ chức bộ máy nhà nước của mình, củng cố sức mạnh của nhà nước, xác định các mục tiêu của nhà nước thì Hiến pháp do nhà nước ban hành. Cơ quan nhà nước được Hiến pháp quy định có quyền Lập hiến như hiến pháp nước ta hiện hành, điều 84 xác định QH có “quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”. Ngược lại, nếu quan niệm Hiến pháp là một văn bản của nhân dân thì nó không thể sửa đổi chỉ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà trước hết quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Như vậy, đổi mới quy trình lập hiến ở nước ta, trước hết cần đổi mới quan niệm về Hiến pháp trên cơ sở đó, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và sửa đổi Hiến pháp.
Thiết lập quy trình sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp năm 1992 của nước ta hiện hành quy định: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội quyết định tán thành” (điều 147). Ngoài điều đó ra Hiến pháp không quy định một chi tiết nào về việc thực hiện quyền đó ra sao? Ví như ai là người có quyền trình dự án sửa đổi Hiến pháp, có cần thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp không? Công bố Hiến pháp sửa đổi như thế nào? Dưới hình thức nào? Giới hạn của việc sửa đổi Hiến pháp gồm những gì? Hơn nữa, quy định nói trên của Hiến pháp cũng không rõ ràng minh bạch “việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” có nghĩa là vấn đề sửa đổi Hiến pháp được đặt ra khi có 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành hay dự án sửa đổi Hiến pháp chỉ trở thành một bộ phận của Hiến pháp khi có 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Nói cách khác, việc “tán thành” đó là việc “tán thành” phải sửa đổi Hiến pháp hay là “tán thành” thông qua bản Hiến pháp sửa đổi. Hiện nay việc “tán thành” đó được hiểu là cả trong việc đề xuất phải sửa Hiến pháp lẫn cả trong việc phê chuẩn dự án Hiến pháp sửa đổi.
Kinh nghiệm Lập hiến của các nước chỉ ra rằng do tính chất của Hiến pháp là một văn bản thiết lập quyền lực gốc, ấn định các quan hệ nền tảng của một quốc gia, nên nội dung quy định quy trình sửa đổi Hiến pháp thường khó khăn và sự khó khăn đó được quy định ngay trong Hiến pháp. Đối với quy trình sửa đổi Hiến pháp nước ta, không thể xem phải có đủ 2/3 số ĐBQH biểu quyết tán thành là thể hiện sự phức tạp khó khăn trong sửa đổi Hiến pháp. Bởi sự khó khăn này chỉ bằng quy định việc bãi nhiệm một ĐBQH (mà việc bãi nhiệm ĐBQH thông thường là do đại biểu đó vi phạm pháp luật không xứng đáng tư cách đại biểu, theo Luật hiện hành của nước ta cũng phải có 2/3 tổng số ĐBQH tán thành). Từ đó, chúng tôi đề nghị kế thừa quy trình lập hiến và sửa đổi Hiến pháp quy định trong Hiến pháp năm 1946 để xác định quy trình lập hiến của nước ta theo các bước sau:
Một là, quyền đưa sáng kiến sửa đổi Hiến pháp: quyền này được trao cho QH. Theo đó 2/3 tổng số ĐBQH có quyền đặt ra yêu cầu sửa đổi Hiến pháp. Điều 70 Hiến pháp năm 1946 nước ta quy định 2/3 tổng số Nghị viện có quyền yêu cầu sửa đổi Hiến pháp.
Hai là, soạn thảo và thảo luận Hiến pháp sửa đổi. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp cũng là một hình thức thảo luận và soạn thảo Hiến pháp sửa đổi. Hiến pháp năm 1946 của nước ta quy định ở điều 70 rằng: “Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi”. Mặc dầu Hiến pháp năm 1992 hiện hành không có quy định này, nhưng trên thực tế các lần sửa đổi Hiến pháp, QH đều thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp.
Ba là, phê chuẩn hiến pháp sửa đổi. Trưng cầu dân ý trong quy trình lập hiến hoặc sửa đổi Hiến pháp là một xu hướng phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Hiến pháp sửa đổi sau khi được QH thông qua với đa số tuyệt đối, còn cần phải đem ra cho nhân dân cả nước phê chuẩn. Ở nước ta, Hiến pháp năm 1946 cũng đã quy định trưng cầu dân ý trong quy trình sửa đổi Hiến pháp. Điều 70 quy định:“Những điều đã được thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp chẳng những thể hiện lòng tin vào nhân dân mà điều quan trọng hơn là xác lập chủ quyền nhân dân đối với quyền lực nhà nước; nhân tố góp phần giữ vững sự ổn định và bền vững của chính quyền khi có sự biến động ở bên trong cũng như bên ngoài đất nước.
Bốn là, quy định giới hạn sửa đổi Hiến pháp trong quy trình ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp khác với ban hành Hiến pháp ở chỗ sửa đổi Hiến pháp là một quyền có giới hạn. Nếu lập hiến (ban hành Hiến pháp) là một quyền không có giới hạn, nghĩa là các chủ thể có quyền lập hiến không bị ràng buộc bởi một thủ tục pháp lý nào và không hạn chế về nội dung của Hiến pháp, thì ngược lại, sửa đổi Hiến pháp là một quyền bị hạn chế bởi nó phải tuân theo Hiến pháp. Nói cách khác, quyền sửa đổi Hiến pháp là do Hiến pháp quy định nên bị giới hạn bởi Hiến pháp. Điều đó có nghĩa là quyền sửa đổi Hiến pháp chỉ bao gồm quyền thay đổi, bổ sung, mở rộng, loại bỏ những điều khoản của Hiến pháp những vẫn giữ lại bản thân bản Hiến pháp. Đó không phải là quyền thiết lập một bản Hiến pháp mới, cũng không phải là quyền thay đổi nền tảng của quyền lập hiến. Sửa đổi Hiến pháp phải giữ lại bản sắc của Hiến pháp, tính chỉnh thể của một bản Hiến pháp, nghĩa là không được thay đổi cấu trúc cơ bản của chính quyền hay hệ thống chính trị mà Hiến pháp đã xác lập. Thông thường sửa đổi Hiến pháp không được thay đổi chính thể tức là mô hình tổng thể về cấu trúc của nhà nước. Bởi vì chính thể tức là mô hình tổng thể về cấu trúc nhà nước. Quyền sửa đổi Hiến pháp là một quyền giới hạn không những về nội dung mà cả về hình thức. Tức là còn phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp về quy trình sửa Hiến pháp.
Ở nước ta chưa đặt một giới hạn nào trong việc sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, theo chúng tôi cần phải có quy định về vấn đề này trong quy trình sửa đổi Hiến pháp. Những quy định của Hiến pháp ở Chương I về chính thể như sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, chính thể dân chủ cộng hòa XHCN, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là những giới hạn đối với sửa Hiến pháp nước ta.
Từ việc thiết lập quy trình sửa đổi Hiến pháp nói trên, chúng tôi đề nghị trong Hiến pháp sửa đổi lần này cần có nội dung quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, điều 147 của Hiến pháp hiện hành có thể sửa đổi như sau:
Việc sửa đổi Hiến pháp được tiến hành theo cách thức sau:
Do 2/3 tổng số ĐBQH yêu cầu;
QH sẽ bầu một Ủy ban sửa đổi gồm ĐBQH và các chuyên gia tiêu biểu của đất nước. Một Nghị quyết của QH quy định nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban này;
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban sửa đổi Hiến pháp soạn thảo trước khi trình QH thông qua phải được toàn thể nhân dân tham gia ý kiến rộng rãi;
- Dự án sửa đổi Hiến pháp được QH xem xét thông qua với 2/3 tổng số ĐBQH tán thành phải được đưa ra toàn dân phúc quyết;
- Không thể sửa Hiến pháp để thay đổi sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, chính thể dân chủ cộng hòa XHCN, cấu trúc của hệ thống chính trị và bản thân điều khoản này.
Nội dung quy định về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại trong Hiến pháp
Theo mô hình Hiến pháp nguyên thủy, các bản Hiến pháp đều có nội dung xoay quanh 4 vấn đề cơ bản nói trên. Tuy nhiên, trong sự phát triển, các Hiến pháp ngày nay, nhất là Hiến pháp các nước XHCN trước đây, đều có khuynh hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Các vấn đề về chế độ kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; an ninh quốc phòng và đối ngoại đều được đưa vào Hiến pháp. Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp là khuynh hướng phổ biến của nhiều bản Hiến pháp ngày nay. Lịch sử Lập hiến của nước ta cũng theo khuynh hướng đó. Trong Hiến pháp năm 1992 hiện hành đã dành đến 3 chương để quy định về những vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Tuy nhiên nhìn vào nội dung của các chương, điều này có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Phạm vi các quy định trong các chương này quá rộng, không những quy định mục đích, vai trò, vị trí mà còn cả những chính sách cụ thể về kinh tế; văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ; an ninh và quốc phòng; mà những chính sách này không phải lúc nào cũng ổn định.
Các quy định còn mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh với ngôn ngữ, chính trị; ít tính pháp lý nên một số quy định chưa ngang tầm được ghi nhận trong Hiến pháp nên hiệu lực điều chỉnh trực tiếp không cao.
Với những hạn chế đó, nghĩ rằng trong Hiến pháp sửa đổi lần này cần gộp tất cả các nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ; an ninh, quốc phòng và đối ngoại thành một chương. Nội dung của chương này quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, những định hướng mục tiêu những giá trị ổn định về tất cả các lĩnh vực nói trên. Lược bỏ những chính sách cụ thể, những quy định chưa thật ổn định, chưa ngang tầm được quy định trong Hiến pháp, để bảo đảm cho một bản Hiến pháp vừa có nội dung theo các quan điểm truyền thống lại vừa có nội dung phát triển của một bản Hiến pháp hiện đại nhưng gọn gàng, súc tích có hiệu lực thực thi cao.
Gs.Ts. Trần Ngọc Đường--ĐBND

Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI: Cần xây dựng luật về sự lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng

Sau khi bản góp ý của TS Lại Huy Phương được Dân trí đăng tải, qua ý kiến bạn đọc và góp ý của bạn bè, ông đã cẩn thận sửa lại bản góp ý của mình. Tôn trọng sự cẩn thận và trách nhiệm đó, Dân trí xin đăng tiếp bản góp ý thứ hai của ông.
 >>  Góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng
Theo tôi một nội dung chính của cương lĩnh là: Xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”  để  “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.”  nhằm mục tiêu  “xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;“. Các ý kiến của tôi dưới đây cũng tập trung vào nội dung này. (Phần chữ nghiêng trong dấu “…” của bài này là trích từ văn kiện dự thảo).
1 - Tôi cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (độc quyền), là một kế thừa tất yếu của lịch sử và cũng là lựa chọn đúng cho giai đoạn hiện nay nếu “độc quyền lãnh đạo” và “dân chủ-nhân dân làm chủ” được gắn với các quy định  pháp luật để không dẫn đến mâu thuẫn, đảm bảo “chính danh chính ngôn”.
- Là Đảng cầm quyền duy nhất, Đảng phải là Đảng của toàn dân, đại diện cho ý chí, quyền lợi của toàn dân. Dân phải thực sự quyết đinh việc cử ra, giám sát và bãi miễn các đ/c đứng đầu Đảng các cấp, để chọn được những người ưu tú nhất được dân tín nhiệm. Ví dụ như: thông qua bầu cử trực tiếp, dân bầu ra người đứng đầu chính quyền của cả nước, của cấp tỉnh, cấp xã; và Điều lệ Đảng (sửa đổi) quy định những người đó (nếu là Đảng viên) sẽ là người đứng đầu Đảng cấp tương ứng.
- Để thực sự dân chủ và phản ảnh thực chất trong bầu cử, phải đảm bảo tự do ứng cử, đề cử (kể cả người ngoài Đảng), giám sát tốt việc bầu cử, dân cần có các thông tin minh bạch của những người được đề cử, ứng cử, đủ căn cứ để người dân lựa chọn.
Ví dụ : Đề cương tranh cử, cam kết, đối thoại và tranh luận; kê khai tài sản của bản thân và vợ, con, bố mẹ... Cách thức này được áp dụng cho cả các cuộc bầu cử khác như quốc hội, toà án … Là đảng viên, tôi đề nghị cũng cần áp dụng cách này trong bầu cử của Đảng.
- Cần xây dựng luật về sự “lãnh đạo Nhà nước và xã hội” của Đảng (Điều 4 của Hiến pháp) - luật về Đảng cầm quyền; trong đó luật hoá các vấn đề như: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; ; “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”... 
Tôi nghĩ trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Luật về Đảng cầm quyền có vị trí đặc biệt (có thể nói là luật số 1) và xây dựng luật này cần tiến hành đồng thời, đồng bộ với xem xét bổ xung, sửa đổi hiến pháp, các luật liên quan.
Mục đích của việc xây dựng luật về Đảng cầm quyền chính là để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đạt hiệu quả cao nhất; đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng phát huy cao nhất vai trò của “Quốc Hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”;  vai trò của "Chính phủ, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất “ và vai trò của nhân dân, người chủ thực sự của đất nước. (Ở địa phương là Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân các cấp).
Làm tốt công việc này sẽ phát huy được sức mạnh thống nhất của toàn bộ hệ thống chính trị, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
- Trong đoạn “ … , trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”  nên thêm “tầng lớp doanh nhân”
2 - “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ... “
- Có cần giữ từ định hướng khi khái niệm XHCN đã được nêu?  Bởi “định hướng” làm cho vấn đề có vẻ mơ hồ, thiếu kiên định, đặc biệt khi đã qua thực tế của 10 năm định hướng.
Khái niệm “kinh tế thị trường” là rõ còn khái niệm “xã hội chủ nghĩa” cơ bản là rõ, và có thể hoàn chỉnh tiếp.
Cụ thể tính  “xã hội chủ nghĩa “ của nền kinh tế thể hiện ở các ý đã nêu tại nhiều chỗ trong dự thảo : “do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” , “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”,  “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”,  “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất” v...v…
- “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” cần hiểu không chỉ là vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước có nội hàm rộng hơn, sẽ đề cập dưới đây. Thực tế vừa qua cho thấy, trong môi trường pháp lí và quy chế quản lí hiện còn chưa hoàn thiện, hiệu qủa làm ăn của một số doanh nghiệp nhà nước là thấp, làm ăn thua lỗ, đã xảy ra tình trạng nợ nần siêu lớn, dễ thất thoát, tham nhũng; có thể trở thành gánh nặng và lực cản của nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước có nội dung bao gồm tất cả các lực lượng kinh tế của Nhà nước: Đó là các doanh nghiệp nhà nước với 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước; là phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần (Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp); các đầu tư của ngân sách nhà nước và của các quỹ đầu tư công, trong đó rất quan trọng là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; các chính sách tín dụng, thuế, chi tiêu công, các tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc chế độ công hữu v. .v… ( Tham khảo từ bài báo điện tử: “Kinh tế Nhà nước: "Hướng đạo", thay vì "chủ đạo" ” - Diễn đàn kinh tế Việt Nam VNR500 - 01/10/2010 - Lê Văn Tứ, Chuyên viên cao cấp Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương ).
Tôi cũng nhất trí với ý kiến và lập luận của ông Lê Văn Tứ là nên thay từ “Chủ đạo”.
Ví dụ như thay bằng “hướng đạo” hoặc“ đinh hướng” hoặc “ Kinh tế nhà nước giữ vai trò đinh hướng XHCN ”.  Thực vậy “Chủ đạo”, sẽ hiểu đồng nghĩa với nắm các vị trí then chốt (dẫn tới thâu tóm dành độc quyền), phải đi đầu về mọi mặt (dẫn tới đòi ưu tiên, đòi điều kiện thuận lợi); “Chủ đạo” có thể hiểu nặng về đòi hỏi đối với Nhà nước và xã hội.
Còn “định hướng” chính là nói về trách nhiệm, nghĩa vụ mà kinh tế nhà nước phải đảm nhiệm với Nhà nước và xã hội. Ví dụ như gánh vác việc đầu tư vào những lĩnh vực khó, cần vốn lớn, lãi suất thấp, nhưng là lĩnh vực có vai trò bảo đảm sự phát triển năng suất, hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, nâng cao phúc lợi toàn xã hội…. Còn các lĩnh vực thuận lợi nên giành cho các Doanh nghiệp ngoài Nhà nước làm. Như vậy “định hướng” là san cao, lấp trũng, tạo dòng chảy thông thoát cho nền kinh tế quốc dân. 
- Tính chất XHCN của nền kinh tế, theo tôi không thực chất nằm ở tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước (đầu vào) mà bản chất nằm ở khâu điều tiết phân phối của cải thu nhập xã hội (đầu ra).
Đó là, thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, thuế thu nhập, chính sách phúc lợi xã hội … , Nhà nước điều tiết, giảm dần chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các vùng đồng bằng miền núi, nông thôn thành thị, các dân tộc, các nhóm lợi ích, các tầng lớp xã hội mà đặc biệt cần quan tâm là đời sống nông dân, công nhân …
Còn cách nào giúp tạo ra nhiều, tăng nhanh và bền vững của cải thu nhập xã hội, thì cách đó cần được chọn và được khuyến khích bằng các chính sách thích hợp .
3 - “Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”
Tham nhũng, hối lộ rất khó phát hiện. Người có chức có quyền mới có điều kiện tham nhũng, quyền chức càng to nếu tham nhũng thì thiệt hại cho đất nước càng nghiêm trọng, càng lớn. Để chống tham nhũng phải có cán bộ trong sạch. Như vậy chống tham nhũng thực là khó.
Tuy nhiên tham nhũng thường đi kèm với các biểu hiện thất thoát, lãng phí lớn, sai phạm về quản lí tài chính, sai phạm về quản lí tài nguyên … , đi kèm với tăng nhanh tài sản giầu không chính đáng (phần nổi của tham nhũng, phần dễ phát hiện hơn).
Theo tôi để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả cần làm đồng bộ các biện pháp: phát huy mạnh mẽ cơ chế giám sát của dân; kiên quyết việc kê khai tài sản của các quan chức, của các lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước (cũng không quá kỳ vọng điều này, khi tài sản còn chưa thể hiện qua tài khoản); điều chỉnh luật để xử lí nặng các thất thoát, lãng phí, các sai phạm về quản lí tài chính, tài nguyên; điều tra sai phạm cần gắn với điều tra tài sản của các đương sự và điều tra phát hiện hành vi tham nhũng; … Bên cạnh đó, kiên quyết xử lí các tham nhũng đã được trực tiếp phát hiện và xử lí nặng đủ mức răn đe.
Còn giải quyết tận gốc lại là vấn đề nâng cao phẩm chất cán bộ, vấn đề xây dựng Đảng.
4 - “Hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”.
Trong việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, hoạt động của hệ thống Tuyên giáo của Đảng, hệ thống báo chí truyền thông của nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội , trường học … có vai trò quan trọng. Bên cạnh việc phát hiện phê phán cái xấu tiêu cực, theo tôi, toàn hệ thống cần làm tốt hơn, nhiều hơn việc tuyên dương, ca ngợi các gương người tốt việc tốt, các gương liêm chính, ứng xử văn minh, các gương-truyền thống văn hoá ứng xử tốt đẹp của cha ông … tạo một luồng gió chính khí át tà khí, để mọi người nghĩ, nói và làm theo.
Vừa qua nếu cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được tiến hành cùng với các hoạt động nêu trên thì hiệu quả sẽ càng cao.
5 - Một số vấn đề cụ thể khác
- “Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, …” theo tôi đây là nguyên tắc của Đảng, còn bộ máy nhà nước phải tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”. Theo tôi cần rất thận trọng vấn đề này, có các quy định sao cho vẫn đạt được ý tốt và miễn dịch với cái xấu. Thực tế thời gian qua cho thấy đây là một vấn đề dễ dẫn tới tệ nạn cơ hội, bè cánh, chạy chức chạy quyền.
Minh bạch, công khai các quy định tiêu chuẩn về đề cử, thi tuyển cán bộ chăng ?
Nên chăng bên cạnh việc giới thiệu các đảng viên ứu tú, Đảng nên làm mạnh hơn nữa việc “giám sát phát hịên những cán bộ thoái hoá, biến chất để đề nghị bãi miễn”.
- “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.”  
Tôi băn khoăn cơ chế - động lực nào để làm việc này. Đến nay tình hình tiêu cực vẫn “chưa được ngăn chặn, đẩy lùi;” dẫn đến “ làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”; trong khi đó đại đa số đảng viên vẫn là người tốt.
Có một thực tế là, khi gánh vai trò đảng cầm quyền và độc quyền, Đảng cũng tự đặt mình vào thế “thách thức”. Trong bối cảnh kinh tế thị trường, “duy nhất cầm quyền” và nhiều nhiệm kỳ, một bộ phận lãnh đạo dễ bị thoái hoá sa sút phẩm chất, mất dần cán bộ tốt, hình thành bè cánh-nhóm lợi ích, “biểu hiện "tự diễn biến" trong nội bộ” và thật nguy hiểm nếu càng lên cao, nguy cơ này càng tăng. Theo tôi giải pháp khả thi nhất là: phải dựa vào dân, giám sát góp ý của toàn dân để xây dựng Đảng, trước hết ở khâu bầu cử cán bộ, đã nêu ở điểm 1, và ở nội dung nêu ngay dưới đây.
- “Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng”.
Đây là việc cấp bách và rất đúng; ngoài nội dung đã nêu, còn là những nội dung rất quan trọng khác như: “cương lĩnh, chiến lược, đặc biệt là vấn đề xây dựng đảng, đội ngũ cán bộ…” ;
Công việc này cần làm thường xuyên, như cần hơi thở, không chỉ vài tháng trước mỗi kì đại hội đảng.
Đảng cần coi vịêc giám sát, góp ý của dân là cứu cánh, là nguồn lực, là sức mạnh cũng là áp lực xã hội, để trợ giúp Đảng “xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao”;
Cần động viên, mời gọi toàn dân, các đoàn thể chính trị-xã hội, hệ thống thông tin, báo chí, báo điện tử… tham gia xây dựng Đảng. Khi và chỉ khi làm tốt công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất đội ngũ cán bộ thì Đảng mới có thể đảm đương tốt vai trò lịch sử “ lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Hà Nội, ngày 04-11-2010
Lại Huy Phương, 67 tuổi, đảng viên, cán bộ hưu, TS Nông học

Một số trao đổi xung quanh vấn đề có hay không tổ chức HĐND cấp huyện, quận, phường


Một số trao đổi xung quanh vấn đề có hay không tổ chức HĐND cấp huyện, quận, phường trong bộ máy chính quyền ở địa phương

Việc tổng kết quá trình thực hiện Hiến pháp lần này là dịp để chúng ta thấy cái được, cái chưa được; cái có thể thay đổi và những cái không thể thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy của chính quyền ở địa phương. Quan trọng hơn là để thấy được những tồn tại, yếu kém trong quản lý điều hành của chính quyền các cấp. Và, điều cốt lõi là xác định rõ nguyên nhân: Do thiết chế của bộ máy có vấn đề hay do quá trình tổ chức thực hiện chưa tốt?
Theo quy định của Hiến pháp, chính quyền địa phương gồm có 03 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi chung là cấp tỉnh; Huyện, quận, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh gọi chung là cấp huyện; xã, phường, thị trấn gọi chung là cấp xã; chính quyền mỗi cấp bao gồm HĐND, UBND và đều là cơ quan hành pháp ở địa phương. Do yêu cầu của quá trình đổi mới và phát triển, việc nghiên cứu và xem xét lại tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức HĐND huyện, quận, phường nói riêng là vấn đề khách quan, cần thiết. Đây là vấn đề hệ trọng vì thế được nhân dân hết sức quan tâm trong quá trình đánh giá lại quá trình gần 20 thực hiện hiến pháp năm 1992. Xung quanh vấn đề có hay không tổ chức HĐND huyện, quận, phường, có nhiều ý kiến khác nhau và có thể chia thành hai nhóm ý kiến chủ yếu: Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng để tinh gọn bộ máy không cần tổ chức HĐND huyện, quận, phường trong hệ thống chính trị; nhóm ý kiến thứ hai thì lại cho rằng cần phải tổ chức HĐND huyện, quận, phường trong hệ thống chính trị như mô hình hiện tại. Từ những ý kiến nói trên xin đưa ra một vài thông tin để cùng trao đổi:
Đối với nhóm ý kiến thứ nhất: Để lý giải cho việc không cần có tổ chức HĐND huyện, quận trong hệ thống chính trị, một số ý kiến cho rằng HĐND huyện, quận là cấp trung gian. Tuy nhiên nói như vậy là chưa chính xác. Bởi lẽ, trong 4 cấp hành chính, không chỉ cấp huyện mà cấp tỉnh, thành phố, cũng là cấp trung gian. Nhân đây cũng phải nói thêm: Cứ cho HĐND huyện, quận là cấp trung gian giữa tỉnh và xã, thì UBND, UBMTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội khác của huyện cũng là cấp trung gian giữa tỉnh với xã.
Tương tự cách nói thiếu chính xác như trên, đã có những ý kiến nên bỏ HĐND huyện, quận, phường vì hoạt động hình thức, không thực quyền, kém hiệu quả. Nhưng có ý kiến đặt vấn đề trở lại là dựa vào cơ sở với những thông tin thực tế nào để đánh giá HĐND huyện, quận, phường hoạt động hình thức, không thực quyền và kém hiệu quả thì chưa có câu trả lời. Không những thế, nếu đặt vấn đề thêm: Chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh và HĐND xã hiện nay có những gì khác biệt so với chất lượng hoạt động của HĐND huyện, quận, phường - Thì câu trả lời lại càng khó hơn.
Nói đến không tổ chức HĐND huyện, quận, phường đã có ý kiến cho rằng như vậy bộ máy sẽ giảm bớt cồng kềnh, tốn kém. Cứ cho là HĐND huyện, quận, phường làm tăng gánh nặng biên chế thì điều đó vẫn chưa phải là lý do để bỏ tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Vấn đề quan trọng hơn rất nhiều là: Cho dù HĐND các cấp nói trên làm tăng biên chế hành chính, nhưng nó là yếu tố cấu thành không thể thiếu trong thiết chế của bộ máy chính quyền nhà nước của nhân dân vì nhân dân thì cũng không thể bớt bỏ đi được.
Cũng với cách nhận định một chiều và duy ý chí, trong báo cáo tổng kết của một số địa phương thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường đã ghi: Qua thí điểm bỏ HĐND huyện, quận, phường cho thấy: “kinh tế - xã hội phát triển; đời sống của nhân dân được cải thiện; quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững”. Đây là một mệnh đề quen thuộc, rập khuôn mà báo cáo nào cũng ghi chứ không riêng gì ở những nơi thí điểm. Và, hàng chục năm về trước, khi chưa thí điểm bỏ HĐND thì các báo cáo cũng đã ghi như thế. Cách đánh giá như vậy làm cho dư luận buộc phải đặt lại câu hỏi: Khi đang có tổ chức HĐND thì HĐND đã làm gì để cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội? Vì sao có HĐND thì đời sống của nhân dân không được cải thiện? Và, lẽ nào HĐND lại làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ quốc phòng an ninh? Hoạt động của cơ quan dân cử lại có thể làm cho trật tự an toàn xã hội không được giữ vững sao? Những câu hỏi nói trên chắc chắn không ai có thể lý giải được. Thực tiễn không hoàn toàn như vậy và đang cho thấy, những địa phương có tổ chức HĐND hoạt động tốt thì ở đó UBND cũng vững vàng và tốt hơn trong quản lý điều hành; mạnh lên; hiệu lực và hiệu quả hoạt động được khẳng định - đáp ứng tốt hơn ý nguyện chính đáng của nhân dân.
Đối với nhóm ý kiến thứ hai: Đó là những lập luận cho rằng thiết chế của bộ máy chính quyền các cấp hiện nay đang là một thiết chế đồng bộ, thống nhất, bảo đảm cho định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, vì nhân dân.
Đồng tình với quan điểm nói trên, nhiều ý kiến cho rằng, một trong 3 cấp chính quyền ở địa phương không có tổ chức HĐND thì thiết chế của hệ thống bộ máy sẽ bị phá vỡ. Theo đó, pháp luật và hệ thống các văn bản sẽ khó để điều chỉnh một cách thống nhất giữa các cấp; việc quản lý điều hành vì thế cũng sẽ vướng mắc và không thể thông suốt. Xin được nêu một vài ý kiến để cùng trao đổi thêm về vấn đề này:
Trước hết là đối với HĐND phường, nhiều ý kiến cho rằng nếu bỏ HĐND phường thì sẽ rất khó nhận được sự đồng tình của nhân dân. Bởi lẽ, cũng như chính quyền xã, HĐND phường cùng với UBND cùng cấp tạo nên một thiết chế bộ máy chính quyền cơ sở gần gũi với nhân dân, sâu sát và trực tiếp hàng ngày với nhân dân, là chỗ dựa về tinh thần, vật chất và pháp lý cho mọi hoàn cảnh trong xã hội vì thế cùng với UBND, HĐND phường cần phải tiếp tục thực hiện theo mô hình hiện hành là đúng với nguyên lý và phù hợp với thực tiễn.
Về HĐND huyện, quận: Nhiều ý kiến cho rằng, không tổ chức HĐND cấp huyện thì giữa HĐND cấp tỉnh và HĐND cấp xã sẽ là một khoảng trống bất lợi về tính hệ thống. Trong thực tế, mối quan hệ giữa các cơ quan dân cử lâu nay vốn đã rời rạc và thiếu tính hệ thống. Vì thế, nếu bỏ HĐND của một trong 3 cấp chính quyền ở địa phương thì mối quan hệ nói trên sẽ càng rời rạc và thiếu tính hệ thống hơn.
Liên quan đến công việc của HĐND cấp tỉnh và cấp xã, nhiều ý kiến cho rằng, nếu không tổ chức HĐND cấp huyện thì khối lượng công việc của HĐND cấp tỉnh sẽ tăng thêm và đây là một thách thức rất lớn, tỉnh không chỉ quyết định và theo dõi quán xuyến đến cấp huyện mà còn phải thay thế huyện quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của huyện đối với cấp xã và phải quán xuyến đến cấp xã. Đồng thời, khi không còn HĐND cấp huyện, HĐND cấp xã nhất là các xã ở vùng sâu, vùng xa sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với HĐND cấp trên. Vì thế, HĐND cấp xã đã khó khăn, và chắc chắn sẽ càng khó khăn hơn.
Bàn về tính đồng bộ và thống nhất về mô hình bộ máy chính quyền ở địa phương, nhiều ý kiến băn khoăn về mô hình không tổ chức HĐND huyện, quận và phường. Bởi lẽ, nếu như vậy thì trong cùng một cấp chính quyền mà nơi này thì đầy đủ một thiết chế bộ máy gồm có HĐND và UBND; nơi kia lại chỉ có UBND. Theo đó, ở trong cùng một tỉnh: Các thành phố và thị xã trực thuộc thành phố thì có HĐND còn các huyện trực thuộc thành phố thì không có HĐND. Hoặc, trong cùng một thành phố: Gồm các đơn vị trực thuộc là xã và phường, ở xã thì có HĐND còn các phường không có HĐND. Theo đó, trong cùng một cấp chính quyền, cơ chế quản lý và điều hành cũng phải khác nhau giữa những nơi có HĐND và những nơi không có HĐND. Và, càng rối rắm hơn bởi lẽ các văn bản quy phạm pháp luật do trung ương và địa phương ban hành cũng phải quy định riêng cho từng loại chính quyền. Theo đó, quá trình tổ chức thực hiện rất khó để đảm bảo được sự rành mạch và thông suốt.
Trao đổi một số vấn đề nói trên chúng ta sẽ có cách nhìn khách quan hơn đối với những vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy HĐND và UBND mà Hiến pháp đã quy định. Việc tổng kết quá trình thực hiện Hiến pháp lần này sẽ là dịp để chúng ta nhận thấy cái được, cái chưa được; cái có thể thay đổi và những cái không thể thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy. Quan trọng hơn là để thấy được những yếu kém trong quản lý điều hành của chính quyền các cấp, xác định rõ nguyên nhân là do thiết chế của bộ máy có vấn đề hay do quá trình tổ chức thực hiện chưa tốt? Đây là vấn đề cốt lõi. Nếu thiết chế bộ máy có vấn đề thì phải nghiên cứu để xây dựng lại một thiết chế mới đáp ứng tốt hơn mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, vì nhân dân. Ngược lại nếu thiết chế đã đúng và không thể có một thiết chế mới nào tốt hơn thì phải xem lại cách thức tổ chức hoạt động của HĐND và UBND các cấp để làm cơ sở cho quá trình tiếp tục củng cố, và hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chính quyền các cấp, đáp ứng lòng mong mong đợi của nhân dân.
ĐBQH Trần Minh Diệu--ĐBND

Xã hội dân sự trong quá trình đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam



Xã hội dân sự trong quá trình đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam 


Những nghiên cứu về xã hội dân sự tại Việt Nam đã được các nhà khoa học nghiên cứu khá kỹ lưỡng, toàn diện và cụ thể trong những năm gần đây. Các công trình chuyên sâu trong lĩnh vực này cần phải kể đến bao gồm: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay của TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2007), Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc của Vũ Duy Phú (chủ biên), Đặng Ngọc Dinh, Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải, Nxb. Tri thức (năm 2008), Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam của GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Nxb. Chính trị - Hành chính (năm 2009), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2008), Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền (Sách tham khảo) của TS. Hồ Bá Thâm - CN. Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2009), Về quá trình dân chủ hoá XHCN ở Việt Nam (Sách chuyên khảo) của PGS.TS. Lê Minh Quân, Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS. Lê Minh Thông, Nxb. Chính trị quốc gia (năm 2011). Trên cơ sở những luận cứ khoa học về xây dựng và phát triển xã hội dân sự tại Việt Nam đã được công bố, bài viết này chỉ tập trung phân tích đặc thù của xã hội dân sự, mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội dân sự và vai trò quản lý của Chính phủ đối với các tổ chức xã hội dân sự khi đất nước ta đang tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ XHCN và đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1. Nhận thức về xã hội dân sự
Xã hội dân sự (Civil society) được hiểu là một cơ chế bao gồm các loại tổ chức trung gian giữa nhà nước và cá nhân, giúp cho các cá nhân có thể cùng tham gia vào các hoạt động, hành động tập thể. Như vậy, xã hội dân sự có hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là vai trò cộng đồng: Đó chính là sự cố kết, liên kết bền vững về mặt đoàn thể. Thứ hai là vai trò của các cá nhân: Đó là sự bảo đảm cho tự do cá nhân. Tại tất các quốc gia trên thế giới, sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự đều phụ thuộc phần lớn vào thái độ và mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự. Có thể nói, trong khi nhà nước là địa hạt của sức mạnh cưỡng chế, của mệnh lệnh và sự tuân phục thì xã hội dân sự lại thuộc lĩnh vực của những hiệp hội tự quản, tự lực, tự nguyện, đồng thuận và cố kết bền vững. Về mặt lịch sử, “cuộc ly hôn” giữa nhà nước và xã hội dân sự khởi nguồn từ ước vọng tách bạch giữa quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội từ kỷ nguyên Khai sáng. Từ đó cho đến nay, mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự luôn là điểm nhấn quan trọng trong nền chính trị thế giới.
Trong thực tiễn, mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự được thể hiện một cách biện chứng, qua lại. Thứ nhất, xã hội dân sự tồn tại và phát triển do sự quan ngại về nguy cơ xói mòn, suy yếu và lụi tàn của tinh thần cộng đồng (public spirit) trong một xã hội. Rõ ràng, sự cô lập, tách biệt, rời rạc của các cá nhân đơn lẻ với những suy nghĩ riêng rẽ, đơn độc sẽ là nguy cơ tiềm ẩn làm xói mòn, suy yếu sự cố kết, đoàn kết của xã hội. Vì vậy, bằng tính sinh động và sự mạnh mẽ của tinh thần cộng đồng và năng lực của các tổ chức xã hội dân sự, xã hội dân sự được nhận định là có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo những giá trị dân chủ, ngăn chặn nguy cơ độc đoán, chuyên quyền trong một xã hội. Xét về bản chất, cơ chế hoạt động của xã hội dân sự là cơ chế tương hỗ, qua lại giữa các cá nhân và chia sẻ ý thức, trách nhiệm cộng đồng cùng giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt lý thuyết, nếu xã hội dân sự xây dựng được một hệ thống những quy định tự quản chặt chẽ, có hiệu lực và hiệu quả thì nhà nước không thể có quyền can thiệp một cách thô bạo vào cơ chế tự quản đó. Tuy nhiên, sự tương phản lại được thể hiện ở khía cạnh thứ hai, khía cạnh ủng hộ cho những quy định quản lý chặt chẽ của nhà nước. Đạo lý của khía cạnh này bắt nguồn từ quan ngại cho rằng cơ chế tự do, tự quản của xã hội dân sự sẽ tiềm ẩn dẫn đến sự tự tê liệt và xung đột. Trong thực tế, các lý do này không nói với chúng ta rằng nhà nước và xã hội dân sự là đối lập mà thực sự, chúng vừa giúp nhau phát triển, vừa nương tựa nhau, vừa chế ước lẫn nhau.
Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội dân sự phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của nhà nước đối với vai trò của xã hội dân sự trong xã hội. Những người theo trường phái tự do lập luận rằng xã hội dân sự cần phải được tự do khỏi sự can thiệp của nhà nước bởi đây là biểu hiện của những quyền cơ bản của con người như quyền tự do lập hội hay quyền tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến. Các tổ chức dân sự nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước thì rõ ràng đó là sự kiểm soát chính trị. Các tổ chức dân sự dựa dẫm vào sự kiểm soát của nhà nước thì sẽ biến tổ chức đó thành một cơ chế kiểm tra chính trị đối với xã hội. Tuy nhiên, có thể nói, một trong những giá trị của xã hội dân sự đó là sự tìm kiếm và đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm giải trình của nhà nước. Xã hội dân sự về cơ bản là địa hạt của của những tranh luận mà trong đó các phong trào xã hội có thể tận dụng, lợi dụng những tranh luận về các quyền để chống lại nhà nước. Mặc dù mục tiêu của xã hội dân sự không phải là tìm kiếm quyền lực của nhà nước nhưng những những bài học lịch sự về sự cố gắng của các tổ chức xã hội dân sự trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước đã làm cho các nhà nước luôn có thái độ cảnh giác, coi xã hội dân sự như một mối nguy hiểm tiềm ẩn.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, vẫn tồn tại hiện tượng một số lực lượng khai thác mặt đối lập chính quyền của xã hội dân sự để tạo ra những xu thế mất ổn định. Rõ ràng, nếu trong một xã hội mà Nhà nước quá mạnh thì sẽ dẫn đến một xã hội độc đoán, thiếu tính năng động sáng tạo. Ngược lại, nếu xã hội dân sự quá mạnh thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ.Chính vì vậy, trong các xã hội hiện đại, việc quản lý xã hội dân sự cần phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Xã hội dân sự không thể tồn tại đâu đó ngoài pháp luật. Luật pháp của Nhà nước có hai chức năng chính là quản lý xã hội và tự chế ước. Bằng pháp luật, nhà nước có thể quyết định số lượng, hình thức của các tổ chức xã hội dân sự mà một xã hội cụ thể cần có, mức độ tự quản và những hoạt động, biện pháp của chính phủ để kiểm soát cũng như thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự. Bằng pháp luật, nhà nước không thể can thiệp một cách tuỳ tiện vào những lĩnh vực hoạt động đoàn thể mang tính chất tự nguyện, tự quản của xã hội dân sự. Pháp luật sẽ chính là trọng tài giữa nhà nước và xã hội dân sự. Trong thực tế, chính sách pháp luật có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát, quản lý, thậm chí là đàn áp, ủng hộ, hay khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự. Các nước trên thế giới thường tập trung chính sách pháp luật vào các điểm mấu chốt như Thủ tục đăng ký và địa vị pháp lý, Các vấn đề về mục đích tồn tại của tổ chức xã hội dân sự, Giải thể, quản lý, Chế độ tài chính, Huy động nguồn lực và hình thành nguồn vốn, Quản lý và trách nhiệm giải trình.
2. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và định hướng quản lý xã hội dân sự tại Việt Nam
Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự được xác định là ba cột trụ chính cho việc xây dựng và phát triển xã hội dân chủ tại Việt Nam. Trong lý luận về xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN được đánh giá là phương thức tổ chức quyền lực hợp lý, có điều kiện phát huy đầy đủ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, có khả năng tạo môi trường và điều kiện cần thiết để người dân thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN là phương thức tổ chức và vận hành quyền lực của nhân dân dưới hai hình thức chủ yếu là nhà nước và pháp luật theo nguyên tắc dân chủ nhằm bảo đảm các quyền và tự do của công dân. Một trong những nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN; Hiến pháp và các đạo luật có vị trí tối cao trong việc điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc trưng nổi bật này thể hiện sự thay đổi căn bản mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, theo đó, tuy pháp luật do nhà nước ban hành nhưng pháp luật lại có vai trò thống trị đối với chính nhà nước đã ban hành ra nó. Ngoài ra, Nhà nước pháp quyền XHCN phải giữ vai trò góp phần tạo dựng một không gian chính trị - pháp lý nhằm đảm bảo và phát huy các quyền cơ bản của con người. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.         
Tại Việt Nam, các tổ chức xã hội dân sự đã phát triển khá mạnh mẽ kể từ những năm 1990 sau khi Đảng ta thực hiện chính sách đổi đổi mới với trọng tâm là dân chủ hoá mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội và xã hội hoá hoạt động cung cấp dịch vụ công. Các hành động tập thể mà các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam hướng tới bao gồm: bảo thọ, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai, khuyến học, đền ơn đáp nghĩa, hiến máu nhân đạo, ngày vì người nghèo, người tốt việc tốt, thanh niên lập nghiệp, toàn dân xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc… Hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam được đánh giá là có nhiều đóng góp tích cực trong việc cố kết và động viên các thành viên trong xã hội cùng với Nhà nước thực hiện có hiệu quả một số định hướng lớn của đất nước trong một số lĩnh vực quan trọng như xoá đói giảm nghèo, xoá mù chữ, phòng chống HIV... Tuy nhiên, theo đánh giá chung, xã hội dân sự tại Việt Nam có cấu trúc rộng nhưng không sâu, người dân thường là thành viên một tổ chức nào đó của xã hội dân sự (phụ nữ, thanh niên, đoàn viên…) nhưng tính tự nguyện còn thấp. Môi trường để xã hội dân sự hoạt động đã được thúc đẩy nhưng còn chưa thực sự khích lệ, phát huy sự tham gia của xã hội dân sự. Ngoài ra, do truyền thống nhiều năm chống giặc ngoại xâm, nên tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam còn mang màu sắc đoàn thể cách mạng, được hỗ trợ một cách đặc biệt từ phía chính quyền và có xu hướng bị hành chính hoá, vì vậy tính độc lập chưa cao. Năng lực và tính khách quan trong phản biện xã hội đối với chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức hành chính chưa cao. Định hướng đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi việc xây dựng và phát triển xã hội dân sự Việt Nam cần phải vượt qua những rào cản về nhận thức, có sự phân biệt rạch ròi giữa các tổ chức xã hội dân sự hiện đại với các tổ chức đoàn thể cách mạng truyền thống, loại bỏ tư duy coi các tổ chức xã hội dân sự là “cánh tay nối dài” của chính quyền, tiếp tục khắc phục tàn dư của tâm lý bao cấp, hành chính hoá còn khá nặng nề đối với các tổ chức xã hội dân sự hiện nay.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cũng đòi hỏi phải phân biệt hệ thống chính trị với xã hội dân sự, xác lập quan hệ dân chủ giữa hệ thống chính trị và xã hội dân sự. Đời sống dân chủ trong nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức tập hợp quần chúng, đa dạng hoá các hình thức thực hành dân chủ của người dân. Các tầng lớp nhân dân không chỉ thuần tuý thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị mà còn có thể thực hiện các quyền dân chủ của mình thông qua các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội đoàn, tôn giáo, cộng đồng. Do đó, hệ thống chính trị phải đổi mới quan hệ và phương thức tác động của mình lên xã hội dân sự; tạo điều kiện để xã hội dân sự hình thành và phát triển.
3. Một vài kiến nghị
1. Cùng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xã hội dân sự được xác định là một trong những động lực chính đảm bảo sự ổn định của xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam. Tuy nhiên, xã hội dân sự và vai trò tham gia quản lý xã hội của các tổ chức xã hội dân sự lại chưa được coi là một môn học trong các chương trình đào tạo cử nhân tại các cơ sở đào tạo luật học tại Việt Nam. Vì vậy, để trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về cơ chế vận hành, hoạt động và quản lý của một xã hội phát triển, môn học “luật pháp và xã hội dân sự” cần được nghiên cứu, bổ sung vào chương trình đào tạo cử nhân luật học tại các cơ sở đào tạo tại Việt Nam.
2. Trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đòi hỏi cần phải thay đổi căn bản nhận thức về các tổ chức xã hội dân sự, từng bước đổi mới quan hệ và phương thức tác động của hệ thống chính trị đối với các tổ chức xã hội dân sự, coi xã hội dân sự thực sự là bạn đồng hành, là đối tác bình đẳng trong quan hệ với Nhà nước, từng bước loại bỏ tư duy bao cấp, hành chính hoá. Trong một xã hội thượng tôn pháp luật, pháp luật phải là trọng tài giữa nhà nước và xã hội dân sự, pháp luật phải tạo dựng khuôn khổ pháp lý ổn định cho các hoạt động tự quản của các tổ chức xã hội dân sự, đồng thời pháp luật cũng phải là công cụ quan trọng để biểu đạt thái độ, định hướng của nhà nước đối với nhu cầu của xã hội đối với các tổ chức xã hội dân sự. Trong bối cảnh đó, để thể hiện tính dân chủ và pháp quyền trong quản lý các tổ chức xã hội dân sự, từng bước loại bỏ tâm lý bao cấp, hành chính hoá đối với các tổ chức xã hội dân sự, Nhà nước ta cần cân nhắc nghiên cứu, giao nhiệm vụ nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xã hội dân sự, hoạt động thực hiện đăng ký và quản lý hoạt động của các hội và đoàn thể quần chúng về Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật và theo dõi chung tình hình thi hành Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi cả nước.
Nguyễn Xuân Tùng - Thạc sỹ luật so sánh, Trưởng phòng Công tác cán bộ Vụ TCCB
Tài liệu tham khảo:
1. Một phần bài viết được trích từ bài thi tốt nghiệp môn Luật pháp và Xã hội dân sự trong Chương trình đào tạo thạc sỹ luật so sánh của tác giả tại Khoa Luật Đại học Melbourne Australia với sự giảng dạy, hướng dẫn của Giáo sư Mark Sidel Đại học Wisconsin Hoa Kỳ.
2. Vũ Duy Phú (chủ biên), Đặng Ngọc Dinh, Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải: Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc, Nxb. Tri thức, năm 2008.
3. GS.TS. Dương Xuân Ngọc: Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính, năm 2009.
4. GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo, PGS.TS. Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên): Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2008.
5. TS. Thang Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên): Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay.
6. TS. Hồ Bá Thâm - CN. Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên): Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, 2009.
7. PGS.TS. Lê Minh Quân: Về quá trình dân chủ hoá XHCN ở Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2011.
8. PGS.TS. Lê Minh Thông: Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2011.
CTTĐT Bộ Tưphap1